Những giá trị
trường tồn
của Cách mạng Tháng Mười Nga
Cách mạng Tháng Mười đã để lại những giá
trị trường tồn đối với lịch sử văn minh của nhân loại. Đó là:
(1) Phá
vỡ khâu yếu nhất trong hệ thống chính trị và kinh tế của chủ tư bản và chủ
nghĩa đế quốc, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của loài người. Đó
là kỷ nguyên quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới.
(2) Lần đầu tiên,
V.Lênin đề ra mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga. Theo đó, chủ nghĩa xã
hội không xây dựng từ con số không mà là kế thừa những kinh nghiệm xây dựng và
phát triển kinh tế tốt nhất của chủ nghĩa tư bản.
(3) Lần đầu tiên trên thế giới, chính quyền
nhà nước chuyển từ trong tay thiểu số người bóc lột chuyển sang tay đa số người
lao động bị bóc lột vươn lên làm chủ vận mệnh của mình và xã hội.
(4) Cách mạng Tháng
Mười không chỉ là động lực mạnh mẽ cổ vũ các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu
tranh chống lại ách áp bức, bóc lột của giai cấp phong kiến, tư sản, tự cứu lấy
mình và giải phóng mình mà còn là xung lực mạnh mẽ, thúc đẩy phong trào giải
phóng dân tộc, cũng như phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển,
lan tỏa nhanh và mạnh sang châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh.
(5) Biến nước Nga
Sa hoàng lạc hậu thành một siêu cường đứng đầu hệ thống xã hội chủ nghĩa, trở
thành trụ cột của hòa bình và an ninh quốc tế, là chỗ dựa cho hàng trăm dân tộc
bị áp bức, đứng lên chống ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập
dân tộc.
Ở thời kỳ đỉnh cao, Liên Xô là cường
quốc công nghiệp đứng thứ hai thế giới (sau Mĩ), chiếm khoảng 20% tổng sản
lượng công nghiệp toàn thế giới; đi đầu trong nhiều ngành công nghiệp quan
trọng. Liên Xô là nước đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân tạo (1957), phóng
tàu vũ trụ Phương Đông đưa nhà du hành vũ trụ I.Gagarin bay vòng quanh Trái Đất
(1961), mở đầu kỉ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người. Liên Xô chiếm lĩnh
nhiều đỉnh cao của khoa học – kĩ thuật thế giới: vật lí, hoá học, điện tử, điều
khiển học, khoa học vũ trụ
(6) Có ảnh
hưởng và tác động hình thành, thúc đẩy phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh,
dân chủ, quyền con người ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản đương đại, buộc chủ
nghĩa tư bản phải điều chỉnh mô hình và chính sách phát triển.
Sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế
quốc, đứng đầu là Mỹ, nhằm vào Liên Xô và Cách mạng Tháng Mười càng chứng tỏ
những giá trị to lớn của cuộc cách mạng
này.
Trong một cuộc thăm dò dư luận tiến hành
vào ngày 12/1/2008, Trung tâm Phân tích Levada đã đưa ra các số liệu:
- 57% số người dân Nga được hỏi ý kiến
cho rằng: Cách mạng Tháng Mười đã đem lại lợi ích cho nhân dân Nga;
- 26% người được hỏi tin tưởng cách mạng
đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nước Nga.
- 31% cho rằng Cách mạng đem đến sự nhảy
vọt cho nền kinh tế và xã hội Nga.
- 16% cho rằng Cách mạng Tháng Mười kìm
hãm sự phát triển của nhân dân; 15% cho rằng CMT10 là một tai họa đối với họ[1].
Cuối năm 2005, kết quả một cuộc điều tra
dư luận của hai cơ quan mang tính trung lập nổi tiếng ở Nga cho thấy:
- 66% người Nga ngày nay cảm thấy nuối
tiếc cho sự sụp đổ của Liên Xô;
- 76% số người cho rằng Liên Xô có rất
nhiều điểm đáng để tự hào;
- 72% và 80% số người được hỏi lần lượt
cho rằng thời Gorbachev và Yeltsin đã đi con đường sai lầm; chỉ có 1% số người
được hỏi mong muốn sống dưới thời Yeltsin[2].
Một thăm dò cũng của Trung tâm Levada
tiến hành vào tháng 4/2016 cho kết quả: 56% số người được hỏi cho biết họ muốn
Liên Xô vẫn còn tồn tại. Kết quả một cuộc khảo sát gần đây của Trung tâm Dư
luận toàn Nga (VTsIOM) cho thấy: 64% người Nga cho biết sẽ bỏ phiếu cho sự bảo
tồn của Liên bang Xô viết nếu một cuộc trưng cầu dân ý lại được tiến hành ở
thời điểm hiện tại[3].
Tổng thống Nga V.Putin từng phát biểu:
“Những ai muốn phủ nhận hoàn toàn những thành quả của chế độ Xô-viết, người ấy
không có trái tim”. Khi được hỏi vì sao ông ủng hộ việc sử dụng phần nhạc của
Quốc ca Liên Xô cho bản Quốc ca mới của Liên bang Nga, ông Putin đã trả lời:
“Nếu chúng ta xóa bỏ mọi điều đã có từ trước và sau tháng 10-1917, thì có nghĩa
chúng ta đã công nhận rằng, cha ông ta đã sống một cuộc đời hoàn toàn vô nghĩa
lý. Bằng cả trái tim và trí tuệ, tôi không thể nào đồng ý thế được”.
Sau sự sụp đổ của Liên Xô, thế giới đã
bước vào một thời kỳ mới đầy bất ổn. Có những thời điểm, lý tưởng của Cách mạng
Tháng Mười đã bị lên án, bị phỉ báng một cách đầy hằn học. Thế nhưng, càng ngày
càng có nhiều những đánh giá khách quan hơn về cuộc cách mạng này. A. Dinoviep,
một người từng chống đối Nhà nước Xô-viết và sau đó bị ngồi tù dưới thời Liên
Xô, sống lưu vong tại Mỹ, cho rằng: “Những thành tựu của chủ nghĩa cộng sản
Xô-viết do Lênin mở đầu đã thấm vào máu thịt của loài người... Nhờ có cuộc cách
mạng vô sản và tất cả những gì gắn liền với cuộc cách mạng đó mà nhân loại đã
được cứu thoát khỏi sự thụt lùi đáng sợ nhất, thoát khỏi sự suy tàn, thoái
hóa”.
2. Sự kiện Liên
Xô tan rã không phải là do “sai lầm lịch sử” của Cách mạng Tháng Mười
Sau khi Liên Xô - sản phẩm ra đời từ của
Cách mạng Tháng Mười bị tan rã vào ngày 26/12/1991, trên thế giới cũng như ở
nước Nga hình thành hai luồng tư tưởng trái ngược nhau.
- Một luồng ý kiến cho rằng, Cách mạng
Tháng Mười chỉ là “một cuộc bạo động phản dân chủ”, “một sự lầm lạc của lịch
sử”, một “bước nhảy liều lĩnh vào một lĩnh vực chưa ai biết đến”...
Cùng với sự sụp đổ Liên Xô, họ đưa ra
kết luận rằng: Lý tưởng về chủ nghĩa xã hội do Cách mạng Tháng Mười khởi xướng
“đã chết”, “CNXH là quái thai, dị dạng, sinh ra không đúng quy luật” nên “sự
sụp đổ là không thể tránh khỏi”; sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô cũng “là sự chấm
hết của CNXH”. Đồng thời, chúng ra sức khuếch trương sự “vĩnh hằng” của chủ
nghĩa tư bản, phủ nhận vai trò Đảng Cộng sản, đòi “đa nguyên, đa đảng”, hướng
lái các quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đi theo quỹ đạo
TBCN. Vì thế, ở nhiều nước trước đây thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa không tổ
chức kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng Mười.
- Một luồng ý kiến khác cho rằng, sự sụp
đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô không phải là do lý tưởng về chủ nghĩa xã hội
là “sai lầm của lịch sử” và do đó những giá trị của Cách mạng Tháng Mười vẫn
trường tồn cùng với tiến trình lịch sử đi lên của nhân loại.
Vì vậy, để có thể thấy được rõ hơn về ý
nghĩa của Cách mạng Tháng Mười đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nước Nga
hiện nay cũng như đối với thực tiễn cách mạng Việt Nam, không thể không nhìn
lại nguyên nhân dẫn tới sự tan rã Liên Xô - thành quả vĩ đại của Cách mạng
Tháng Mười. Có thể rút ra mấy nguyên nhân chủ yếu sau:
Nguyên nhân thứ
nhất: những hạn chế và khiếm khuyết của
mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô chậm hoặc không được khắc phục, đã trở thành
cản trở đối với sự phát triển.
Cũng như bất kỳ mô hình phát triển nào
của nhân loại đều tiềm ẩn trong đó những khiếm khuyết và hạn chế, cần được điều
chỉnh và khắc phục trong quá trình phát triển. Đó là quy luật tất yếu. Ngay cả
mô hình chủ nghĩa tư bản trong hàng trăm năm phát triển từ thế kỷ XVII tới nay
cũng đã từng bộc lộ nhiều khiếm khuyết và hạn chế nhưng đã được chính phủ nhiều
nước tư bản tự điều chỉnh và khắc phục.
Trong khi đó, những hạn chế và khiếm
khuyết của mô hình chủ nghĩa hiện thực ở Liên Xô đã chậm hoặc không được khắc
phục và điều chỉnh. Năm 1921, V.Lênin khởi xướng chính sách kinh tế mới, trong
đó có nội dung cơ bản là phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần
và các hình thức sở hữu khác nhau (sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân và sở hữu
tập thể). Lênin cũng khuyến khích hợp tác kinh tế với nước ngoài để tiếp thu
những tiến bộ của các nền kinh tế phát triển. Lênin đã nhìn nhận CNTB ở những
khía cạnh tích cực và chủ trương sử dụng những tiến bộ của CNTB để xây dựng
XHCN ở những nước kinh tế chậm phát triển. Với việc vận dụng chính sách kinh tế
mới phù hợp, nên chỉ sau đó khoảng 4-5 năm, nước Nga đã vượt ra khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế xã hội, là tiền đề cho sự phát triển sau này.
Đến thời Stalin, do tác động từ cuộc
chiến tranh bao vây cấm vận của Phương Tây, Stalin đã từ bỏ chính sách kinh
tế mới và thay bằng cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Cần khẳng định một
thực tế lịch sử là, mô hình kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã tạo
ra sự phát triển nhanh, thậm chí là thần kỳ, đưa Liên Xô nhanh chóng trở thành
cường quốc công nghiệp, góp phần rất quan trọng để giành thắng lợi trong cuộc
Chiến tranh giữ nước vĩ đại (1941-1945) và khôi phục kinh tế sau chiến tranh.
Tuy nhiên, mô hình này đã không được kịp thời điều chỉnh phù hợp để với yêu cầu
phát triển trong điều kiện mới sau khi hoàn thành giai đoạn tập trung khôi phục
và phát triển kinh tế sau Chiến tranh thế
giới lần thứ II.
Sự vận dụng không đúng đắn, thiếu sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tế cuộc
sống cũng như chậm tổng kết những bài học từ thực tiễn để điều chỉnh, bổ sung
đường lối, chính sách, phát triển lý luận đã đưa Liên Xô lâm vào tình trạng trì
trệ, làm thui chột sức sáng tạo, làm cho tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội
không được phát huy đầy đủ và rút cuộc rơi vào khủng hoảng toàn diện và đi đến
sụp đổ.
Xét về bản chất, những hạn chế và khiếm
khuyết này không xuất phát từ những lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười, không
xuất phát từ bản thân của lý luận Mác-Lênin và hoàn toàn có thể khắc phục được.
Điều này đã được minh chứng bằng thành tựu vĩ đại của Trung Quốc trong quá
trình cải cách mở cửa và hội nhập quốc tế với mô hình “chủ nghĩa xã hội đặc
sắc”, cũng như sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, ở đó lý tưởng của chủ nghĩa xã hội
từ Cách mạng Tháng Mười vẫn tiếp tục được phát triển và phát huy trong điều
kiện mới.
Nguyên nhân thứ
hai: sự thoái hóa, biến chất của một bộ
phận không nhỏ cán bộ và đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô.
Không ít người lãnh đạo Đảng Cộng sản
Liên Xô hô hào trung thành với chủ nghĩa Mac-Lênin nhưng lại hiểu một cách giáo
điều về học thuyết sáng tạo này. Từ đó, một bộ phận không nhỏ lãnh đạo Đảng
Cộng sản Liên Xô và Nhà nước Xô-Viết xa rời quần chúng, trở nên tha hóa và đánh
mất niềm tin của người dân, đồng nghĩa với việc đánh mất vai trò lãnh đạo.
Năm 1918, chính quyền Xô Viết gặp phải
một cuộc khủng hoảng lương thực. Tại một cuộc họp, Churuva lúc đó đang là Ủy
viên nhân dân phụ trách vấn đề lương thực, bất ngờ bị ngất xỉu. Người ta phải
khẩn cấp điều bác sĩ đến khám. Khám xong, bác sĩ kết luận, Churuva bị ngất xỉu
do đói! Là quan chức cao nhất phụ trách vấn đề lương thực của chính quyền Xô
Viết, Churuva nắm trong tay quyền điều động hàng triệu, thậm chí hàng chục
triệu tấn lương thực, nhưng lại không giữ cho riêng mình số thực phẩm đủ để no
bụng.
Nhưng khi đã giành được chính
quyền, nắm quyền lực trong tay, một bộ phận đảng viên – nhất là ở một số
cấp lãnh đạo tối cao - đã nảy sinh sự tự mãn, cao ngạo, sùng bái cá
nhân, coi thường quần chúng, hình thành một tầng lớp đặc quyền, đặc lợi,
sống tách biệt khỏi quần chúng, đặt mình lên trên quần chúng. Trong Đảng, tình
trạng xem nhẹ các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc
tập trung dân chủ, vứt bỏ giám sát trong Đảng, dùng ý chí cá nhân hoặc thiểu số
để thay thế trí tuệ của đa số diễn ra khá phổ biến, ngay cả trong sinh hoạt của
Bộ Chính trị và cán bộ lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước Liên Xô.
Chưa đến một tháng trước khi tan rã, mất
quyền lãnh đạo, những người lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền vẫn khẳng định
sức chiến đấu của đảng mình, vẫn tuyên bố tuyệt đại bộ phận nhân dân còn ơn
đảng, theo đảng, tin đảng và tuyệt đại đa số đảng viên là tin cậy, trung
thành...! Nhưng khi Gorbachev tuyên bố giải tán Đảng, hàng chục triệu đảng viên
Đảng Cộng sản Liên Xô không có phản ứng nào. Nhiều người gia nhập Đảng Cộng
sản không để cống hiến vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa, mà để kiếm chức tước, vun vén lợi ích cá nhân. Sự suy thoái đạo
đức, tư tưởng chính trị, tự diễn biến tự chuyển hoá từ bên trong và bên trên đã
làm cho đảng có một xác thịt to lớn (hàng chục triệu đảng viên), nhưng không có
hồn, không có sức sống và đi đến tự tan rã.
Kết quả điều tra tiến hành trong tháng
6/1991 cho thấy: Trong tầng lớp cán bộ cao cấp Liên Xô, có tới 76,7 % số người
cho rằng nên đi theo con đường tư bản. Năm 1991, trước khi Đảng CS Liên Xô sụp
đổ không lâu có một cuộc điều tra dân ý về chủ đề: “Đảng CS Liên Xô đại diện
cho ai?”. Kết quả là: Số người cho rằng Đảng CS Liên Xô đại diện cho nhân dân
Liên Xô chiếm 7%, Đại diện cho công nhân chiếm 4%, Đại diện cho toàn thể đảng
viên chiếm 11%, Đại diện cho quan chức, cán bộ và nhân viên nhà nước: 85%[4].
Nguyên nhân thứ
ba: sự phản bội lớn nhất và nguy hiểm
nhất của tập đoàn lãnh đạo trong Đảng Cộng sản Liên Xô do M.Gorbachev đứng đầu.
Có lẽ trong số các chính trị gia ở LB
Nga hiện nay ít ai được báo chí phương Tây dành cho nhiều lời động viên như
Mikhail Gorbachev, cựu Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, vị tổng thống đầu
tiên và cũng là cuối cùng của Liên bang Xôviết. Và cũng ít có nhân vật nào bị
ghẻ lạnh nhiều trong dư luận xã hội, trở thành một trong những biểu tượng
bị ghét bỏ nhất ở nước Nga.
Trước khi làm Tổng thống Liên Xô,
Gorbachev nhiều lần tuyên bố: Đảng chính là tất cả của tôi. Tôi có thể từ bỏ
chức vị Tổng thống Liên Xô bởi vì điều quan trọng nhất trong trái tim tôi là
Đảng Cộng sản Liên Xô.
Năm 1999, tại trường đại học Mỹ ở
Thổ Nhĩ Kỳ, chính Gorbachev đã tự thú nhận: “Mục tiêu của toàn bộ đời tôi là tiêu diệt chủ nghĩa
cộng sản. Chính vì để đạt được mục tiêu này tôi đã sử dụng địa vị của mình
trong Đảng và trong Nhà nước. Khi trực tiếp làm quen với phương Tây, tôi đã
hiểu rằng tôi không thể từ bỏ mục tiêu chống cộng sản đã đặt ra. Và để đạt được
nó, tôi đã phải thay đổi toàn bộ Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô và Xô viết
Tối cao cũng như Ban lãnh đạo ở tất cả các nước Cộng hoà. Tôi đã tìm kiếm những
người ủng hộ để hiện thực hoá mục tiêu đó, trong số này đặc biệt có A. Yakolev,
Shevardnadze…”[5].
(Yakovlev là Ủy viên Bộ Chính
trị, Bí thư Trung ương Đảng phụ trách truyền thông, là 1 trong 4 cán bộ đầu
tiên của Liên Xô được cử sang Mỹ học tập. Yakovlev có sự thù hận đặc biệt đối
với chủ nghĩa xã hội. Ông phủ định Cách mạng Tháng Mười, phủ định thành tựu xây
dựng của Liên Xô. Trong mắt ông, những thứ mà Liên Xô đã có chỉ có thể là tội
ác. Cái mà Liên Xô giành được chỉ có thể là sự nguyền rủa. Shevardnadze là Ngoại trưởng Liên Xô thời kỳ Gorbachev cầm
quyền; về sau trở thành Tổng thống của Nước Cộng hoà Gruzia).
Sự
phản bội của tập đoàn lãnh đạo M.Gorbachev thể hiện trên nhiều bình diện khác
nhau:
(1)
thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Liên Xô đối với xã hội;
Năm 1990, Gorbachev là người thúc
đẩy sửa đổi nội dung Điều 6 Hiến pháp quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Liên Xô, xóa bỏ cơ sở pháp lý của việc Đảng Cộng sản Liên Xô giữ
vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và hệ thống chính trị ở Liên Xô.
Trong khi đó, các tổ chức phi chính thức của phe đối lập chưa đăng ký nhưng đã
hoạt động có tính chất như chính đảng, lại được bảo đảm của Hiến pháp giống như
địa vị của Đảng Cộng sản Liên Xô.
Gorbachev đã nâng đỡ Yeltsin, đưa
Yeltsin vào Bộ Chính trị để cùng với mình thực hiện mưu đồ làm suy yếu Trung
ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Sau khi có xung đột với Gorbachev, Yeltsin bị khai
trừ khỏi Bộ Chính trị. Nhưng khi đó, Yeltsin đã có một bệ đỡ khác, đó là Mỹ và
phương Tây. Năm 1991, Yeltsin đắc cử Tổng thống Liên bang Nga, ban bố sắc lệnh
phi đảng hóa và tuyên bố nghiêm cấm hoạt động của các chính đảng trong cơ quan
nhà nước các cấp cũng như các đoàn thể quần chúng và doanh nghiệp cơ sở, giáng
một đòn cuối cùng vào sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô và sự giải thể
của Liên Xô.
(2) cho phép hình thành các tổ chức chính trị
và đảng đối lập và chấp nhận chế độ chính trị đa nguyên, đa đảng trong xã hội
Xô-Viết;
Sau khi Gorbachev chấp nhận đa
nguyên, đa đảng, các tổ chức chính trị và đảng đối lập ở Liên Xô phát triển
mạnh như nấm sau mưa. Kusov, Phó Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Nga ngày
28-2-1991 nói: “Sửa đổi Hiến pháp chỉ vẻn vẹn một năm, đã có khoảng 20 chính
đảng cấp Liên bang, có hơn 500 chính đảng cấp nước cộng hòa. Hầu hết trong đó
trở thành lực lượng chính trị cuối cùng thúc đẩy Đảng CS Liên Xô bị hạ bệ và
giải tán”.
(3) xuyên tạc, thậm chí xóa bỏ các giá trị
lịch sử Liên Xô;
Ban đầu, Gorbachev khơi mào cho
phong trào thẩm tra, xem xét lại những vấn đề nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô
và lịch sử Liên Xô XHCN. Chiến lược xuyên tạc của Gorbachev khởi đầu bằng việc
phủ định hoàn toàn tư tưởng và công trạng của Stalin. Được sự cho phép của
Gorbachev, các thế lực phản bội đã ra sức vẽ ra số người bị Stalin giết
hại trong các cuộc thanh trừng, xã hội rằng con số lên đến hàng mấy chục triệu.
Họ coi công nghiệp hóa đất nước của Stalin làm là vô tích sự. Họ ra sức xuyên
tạc, khuếch đại sai sót của Stalin thời kỳ đầu chiến tranh, thậm chí phủ nhận
thắng lợi của chiến tranh Vệ quốc.
Sau đó, việc phê phán Stalin dần
dần chuyển sang phê phán, phủ định Cách mạng Tháng Mười, Chủ nghĩa Lenin và bản
thân Lenin. Năm 1989, các ban ngành hữu quan của Liên Xô ra lệnh bãi bỏ môn học
Chủ nghĩa Marx - Lenin trong trường học, đổi giáo trình Chủ nghĩa Marx - Lenin
ở cấp trung học thành môn Xã hội và con người. Một số bài viết nêu lên một cách
úp mở, coi sai lầm của Stalin có liên quan tới Cách mạng Tháng Mười, Chủ nghĩa
Lenin và bản thân Lenin. Sau năm 1991, các thế lực phản động đòi đưa thi hài
Lenin ra khỏi lăng, đập bỏ tượng đài Lenin, Stalin…
Đến năm 1991, khi dư luận chính
thống hàng triệu lần lặp đi lặp lại rằng Đảng Cộng sản Liên Xô và thực
tiễn chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô thất bại, hình ảnh các lãnh tụ đảng
bị bôi đen, đã gây hoang mang, nghi ngờ sâu sắc trong xã hội không còn tin vào
Đảng, lãnh đạo Đảng, vào CNXH, coi những lời nói hoang đường và luận điệu xằng
bậy là chân lý… Khi các thế lực thù địch tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản, lật
đổ chế độ XHCN, không còn ai đứng lên để bảo vệ Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã
hội.
(4)
dùng thủ đoạn tổ chức để loại bỏ các đảng viên có quan điểm chống lại đường lối
“cải tổ” của M.Gorbachev, đưa các điệp viên ảnh hưởng của Mỹ và Phương Tây vào
cơ cấu quyền lực của Đảng và Nhà nước Liên Xô, từ trung ương tới các địa
phương;
Trong thời gian cầm quyền,
Gorbachev đã thay thế hoặc cách chức 8 ủy viên trong Bộ Chính trị và Ban Bí thư
Trung ương Đảng, hơn 20 bộ trưởng và hàng chục lãnh đạo cấp bộ, 92,5% trong 150
bí thư khu ủy, thành ủy, tỉnh ủy. Trong ba năm 1987-1989 có khoảng 50% cán bộ
cơ quan chiến lược của quân đội, hơn 100 cán bộ chính trị cấp chiến dịch-chiến
lược và 30% tướng lĩnh bị cách chức hoặc cho ra quân với lý do “tư tưởng bảo
thủ, không ủng hộ cải tổ”, thay thế họ là những phần tử “cấp tiến”.
Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên
Xô đứng đầu là Gorbachev từ chỗ khuất phục đến chào đón chiến lược phương Tây
hóa, phân hóa, cộng thêm nội công ngoại kích của lực lượng chống đối Đảng Cộng
sản Liên Xô, đã đẩy Đảng Cộng sản Liên Xô đi vào cảnh cùng đường trong cuộc
chiến không có khói súng. Đảng CS Liên Xô từ hưng thịnh đến bại vong, đất nước
Liên Xô từ lớn mạnh đến tan vỡ. Gorbachev trở thành người bị căm ghét nhất ở
Nga.
Nguyên nhân thứ
tư: chiến lược chống phá toàn diện
của Mỹ và các nước Phương Tây nhằm làm tan rã Liên Xô.
Ngay sau Chiến tranh thế giới lần thứ
II, Mỹ đã phát động Chiến tranh lạnh, thực chất
là thực
hiện chiến lược diễn biến hòa bình để chống phá Liên Xô thông qua ba công cụ
quan trọng:
(1) cuộc chiến
tranh thông tin-tư tưởng-tâm lý trên phạm vi toàn cầu nhằm phá hoại Liên Xô
về tư tưởng, chính trị, văn hóa, giáo dục dài gần 40 năm với chi phí lên
tới gần 1.000 tỷ USD.
Phương Tây sử dụng phương tiện thông tin đại chúng để
thẩm thấu ý thức hệ, duy trì 4 đài phát thành nhằm vào Liên Xô: đài Châu Âu tự
do, đài Tự do, hằng ngày phát thanh bằng sáu thứ tiếng; đài BBC phát bằng 40
thứ tiếng, đài Sóng điện Đức bằng 35 thứ tiếng. Bốn đài phát thanh này hằng
ngày chĩa vào Liên Xô và Đông Âu, với trọng điểm là phủ định lịch sử cách mạng
Liên Xô, phóng đại, thổi phồng những vấn đề xã hội của Liên Xô và các nước Đông
Âu, kích động tâm lý bất mãn, hướng sự bất mãn này vào Đảng Cộng sản và chế độ
XHCN. Các tác phẩm chống Lenin, Stalin xuất hiện đầy rẫy trên các báo, đài phát
thanh, đài truyền hình, phim ảnh...
Trước và sau những năm 90, trào lưu tư tưởng vứt bỏ
CNXH trong xã hội Liên Xô lên đến cao trào; người dân Liên Xô không còn niềm
tin trong xã hội Xô-Viết về chủ nghĩa xã hội. Và không ít thế lực chính trị
quyết định quay lưng với CNXH, đi thẳng đến CNTB.
Trong hồi ký “Hồ sơ cá nhân”, Đại tướng Kryuchkov, cựu
Chủ tịch Ủy ban An ninh Quốc gia (KGB) của Liên Xô đã viết về bi thảm của Liên
Xô tan rã như sau: “Phải khẳng định những gì diễn ra ở Liên Xô không hề do tính
tất yếu khách quan, mà đó là hậu quả của những nhân tố chủ quan, tức là những
hoạt động và hành vi của một số người. Và ngọn nguồn của quá trình phá hoại này
là do hai người gây ra, đó là Gorbachev, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô và Yakovlev”.
(2) Liên
minh quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO);
(3) Liên minh châu Âu (EU).
Từ 1989, kinh tế,
xã hội Liên Xô gặp nhiều khó khăn. Tháng 5-1991, Gorbachev cử nhà kinh tế học
Yalinski đi Hoa Kỳ cùng các chuyên gia Đại học Harvard lập kế hoạch Harvard.
Theo đó, mỗi năm phương Tây viện trợ cho Liên Xô từ 30 tỷ - 50 tỷ USD, tổng
cộng trong 5 năm là 150 - 200 tỷ USD, đổi lại Liên Xô phải thực hiện tư hữu
hóa, dân chủ hóa triệt để, cho các dân tộc quyền tự quyết... Chương trình này
kèm theo cả điều kiện gắn với tình hình cải tổ của Liên Xô, cứ nửa năm xem xét
một lần. Theo cách nói của phương Tây thì cải tổ nhiều viện trợ nhiều, cải tổ
ít viện trợ ít, không cải tổ không viện trợ. Tuy nhiên, viện trợ của phương Tây
chỉ là mồi nhử. Tổng thống Nixon khi đó đã nói: Lợi ích chiến lược lúc này
không phải là cứu vớt Moscow về kinh tế mà là phá hủy chế độ XHCN ở Liên Xô.
Tháng 7-1991,
Gorbachev mang các văn kiện, trong đó có kế hoạch Harvard, đến London gặp gỡ
bảy nguyên thủ phương Tây xin viện trợ. Nhưng kết quả lại làm ông ta vô cùng
thất vọng, bảy nước phương Tây không hề cam kết bất cứ một khoản viện trợ nào.
Dù vậy, Gorbachev vẫn làm theo kế hoạch Harvard, đưa công cuộc cải tổ ở Liên Xô
vào con đường theo hướng phương Tây dẫn dụ. Nhờ đó, Gorbachev nhận được danh
hiệu mỹ miều do phương Tây ban tặng là “nhà cải tổ vĩ đại”, đồng thời nhận được
giải Nobel hòa bình năm 1990. Các tập đoàn tư bản ở các nước phương Tây như Hoa
Kỳ, Anh, Đức,... còn cung cấp cho Gorbachev rất nhiều tiền dưới hình thức nhuận
bút và hình thức khác. Tác phẩm đầu tiên của vợ ông là Raisa xuất bản tại Hoa
Kỳ, lập tức được trả ba triệu USD tiền nhuận bút.
Những sai lầm bên trong,
cộng với sự chống phá từ bên ngoài đã dẫn đến sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên
Xô, nhà nước Liên Xô, các nhà nước ở Đông Âu, hệ thống các nước XHCN tan rã. Sự
sụp đổ nhà nước Xô-Viết còn dẫn tới một hậu quả cực kỳ nghiêm trọng đối với
nước Nga là làm băng hoại nhận thức của nhân dân Nga về lịch sử Liên Xô, về
Cách mạng Tháng Mười. Đây là thảm họa chưa từng có trong lịch sử hàng ngàn năm
của nước Nga.
Năm 2005 khi đọc
Thông điệp Liên bang, Tổng thống Nga Putin nói: “Liên Xô tan rã là tai họa
chính trị nghiêm trọng nhất của thế kỷ 20. Đối với nhân dân Nga, đó là một bi
kịch thực sự”. Rất nhiều học giả Nga cũng rút ra kết luận rằng, Đảng Cộng sản
Liên Xô sụp đổ, Liên Xô tan rã làm cho phát triển kinh tế – xã hội thụt lùi mấy
chục năm. Cụ thể :
- Đất nước nghèo đi
nhanh chóng, do thực hành tư hữu hoá trong lĩnh vực kinh tế. Thiệt hại về kinh tế của nước Nga từ sự tan
rã Liên Xô ước tính
nhiều gần 2,5 lần thiệt hại mà Liên Xô phải chịu đựng trong Chiến tranh thế
giới lần thứ II. Trong đó, 500 xí nghiệp lớn của nước Nga bị đem ra bán đấu giá
trung bình mỗi xí nghiệp khoảng 8 triệu USD, dù giá trị thật của nó ước tính
lên đến 1.000 tỷ USD. Thí dụ, Xí nghiệp chế tạo máy Uralmash có 34 ngàn công
nhân đã phải bán đấu giá 3,72 triệu USD.
- Xã hội rơi vào
hỗn loạn, tội phạm tràn lan. Theo tài liệu của Bộ Nội vụ Nga, lúc đó toàn quốc
xuất hiện hơn 8.000 băng nhóm tội phạm cỡ lớn có tổ chức. Trong Thông điệp tình
hình đất nước năm 1996, Yeltsin cũng thừa nhận: “Nước Nga hiện nay đã vượt
Italia, trở thành vương quốc băng đảng mafia lớn nhất thế giới”.
- Sản xuất đình
đốn. Từ năm 1991 đến cuối thế kỷ 20, tổng giá trị sản xuất trong nước của Nga
giảm xuống 52% so năm 1990 (trong khi đó, vào thời kỳ chiến tranh từ năm 1941
đến năm 1945 chỉ giảm 22%). Sản xuất công nghiệp, nông nghiệp giảm hơn 60%.
Đồng rúp mất giá, vật giá tăng cao hơn 5.000 lần. Từ năm 1992 trở đi, dân số
nước Nga luôn có xu thế giảm. Tuổi thọ bình quân của người Nga năm 1990 là 69,2
tuổi. Còn năm 2001 là 65,3 tuổi. Thậm chí, tuổi thọ bình quân của nam giới ở
một số vùng giảm xuống đến 10 tuổi.
3. Ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười đối với thực tiễn
cách mạng Việt Nam
3.1. Ý nghĩa
Cách mạng Tháng Mười thắng lợi đã mở đường cho chủ nghĩa Mác-Lê-nin lan tỏa
tới tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, soi sáng con đường đấu tranh
cho nhiều nước ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh xóa bỏ ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân, đế quốc, phá vỡ từng mảng lớn hệ thống thuộc địa của chúng và
giành được tự do, độc lập, đưa nhân dân lên địa vị làm chủ xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc Việt Nam từ những tư tưởng trong bản Luận cương của V.I.Lênin “Về vấn đề
dân tộc và dân tộc thuộc địa”. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa
Mác-Lenin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cả dân tộc Việt Nam đứng
lên giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chế độ phát xít, thực dân và
phong kiến và tay sai gần 100 năm, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm
vào ngày 2/9/1945 ; sau đó là thắng lợi của hai cuộc kháng chiến
trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước và đi lên CNXH.
Cần khẳng định : Nếu không có Cách mạng Tháng 10, sẽ không thể
có Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam. Không có Liên Xô, không có thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Pháp. Chính phủ Liên Xô đã giúp đỡ toàn diện cho Việt
Nam, trong đó có viện trợ nhiều loại vũ khí trang bị chủ chốt. Chính những vũ
khí trang bị do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác viện trợ đã góp phần
rất quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, làm nên
chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy địa cầu.
Sau kháng chiến
chống thực dân Pháp, Liên Xô đã có những hỗ trợ hết sức quý báu cho Việt Nam: Giúp
xây dựng nhiều công trình công nghiệp quân sự và dân dụng, đào tạo cho Việt Nam
hàng ngàn chuyên gia và công nhân thuộc nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế-xã
hội và văn hoá. Đặc biệt, Liên Xô đã giúp đào tạo cho Việt Nam hàng ngàn sỹ quan
và chuyên gia kỹ thuật, đồng thời đưa cố vấn quân sự sang giúp Việt Nam xây
dựng quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại; viện trợ
cho Việt Nam các loại vũ khí hiện đại thời bấy giờ như máy bay, pháo và tên lửa
phòng không, xe tăng, tàu chiến mà ngành công nghiệp của ta chưa thể sản xuất
được. Cơ sở vật chất-kỹ thuật và nguồn nhân lực do Liên Xô giúp ta xây dựng là
một trong những yếu tố cực kỳ quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp của cuộc
chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc đối đầu thắng lợi với cuộc chiến tranh
xâm lược của đế quốc Mỹ trên cả hai miền Nam và Bắc nước ta.
Sau khi Việt Nam
thống nhất đất nước vào năm 1975, mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Liên Xô
đã chuyển thành hợp tác cùng có lợi, nhưng với tinh thần hữu nghị, Liên Xô vẫn
tiếp tục cung cấp cho Việt Nam các khoản viện trợ kinh tế lớn cho đến giữa
những năm 1980. Trong giai đoạn từ năm 1978 đến giữa những năm 1980, hàng
năm Liên Xô cung cấp các khoản viện trợ từ 700 triệu đến 1 tỷ USD, bao gồm các
khoản cho vay, tín dụng thương mại, đào tạo kỹ thuật, các dự án hỗ trợ và được
trợ giá. Cho đến giữa những năm 1980, khi Liên Xô phải đối mặt với rất nhiều
vấn đề, bạn vẫn dành cho Việt Nam khoản viện trợ 1 tỷ USD mỗi năm.
Trong
điều kiện còn gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế do chưa thoát khỏi cuộc khủng
hoảng sau khi Liên Xô tan rã, kể từ năm 2000 Tổng thống Nga V.Putin đã quyết
định xóa nợ cho nhiều quốc gia, Tổng cộng, từ năm 2000, Nga xóa nợ cho các nước
đối tác với tổng giá trị hơn 140 tỷ USD,
trong đó Việt Nam được Nga xóa nợ 9,53 tỷ USD.
Vào cuối năm 1991,
Liên bang Xô-Viết bị giải thể, nước Nga với tư cách là quốc gia được kế thừa
Liên Xô, trong đó có quan hệ với Việt Nam. Tháng 6/1994, trong chuyến thăm
chính thức Liên bang Nga của Thủ tướng nước ta Võ Văn Kiệt, hai nước ký Hiệp
ước về những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ song phương giữa Việt Nam và Liên
bang Nga. Từ ngày 28/2 đến ngày 2/3/2001, Tổng thống Liên bang Nga V. Putin
thăm chính thức Việt Nam. Trong chuyến thăm này, hai nước đã ký kết nhiều văn
kiện hợp tác quan trọng, trong đó có Tuyên
bố chung về quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Liên bang Nga.
Đối với Việt
Nam, quan hệ với Nga được coi là một mối quan hệ đặc biệt quan trọng. Trong
chuyến thăm Nga vào tháng 10/2008, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khẳng định:
“Chính phủ và nhân dân Việt Nam rất coi trọng việc phát triển quan hệ hữu nghị
và hợp tác truyền thống với nước Nga, coi Nga là người bạn thủy chung, đối tác
tin cậy của Việt Nam. Việt Nam coi quan hệ đối tác chiến lược và hợp tác toàn
diện với Liên bang Nga là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mình.
Việt Nam mong muốn Nga phát triển vững mạnh, giữ vai trò là một trong những
cường quốc hàng đầu, đóng góp to lớn cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát
triển trên thế giới”.
Trong chuyến
thăm Việt Nam năm 2010, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev khẳng định: “Nga chủ
trương phát triển quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam, coi trọng vị trí của
Việt Nam trong chiến lược châu Á-Thái Bình Dương theo học thuyết đối ngoại mới
của Nga”. Trong Sắc lệnh về chính sách đối ngoại trong nhiệm kỳ mới,
Tổng thống Nga V.Putin đã xếp Việt Nam vào nhóm đối tác quan trọng ở
Châu Á-Thái Bình Dương.
3.2. Kế thừa
những giá trị của Cách mạng Tháng Mười trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam
Đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Lãnh tụ Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng Việt Nam gần 90 năm qua đã
giành được những thành tựu to lớn mang tính lịch sử. Nhân dân ta kiên định sự
nghiệp đổi mới, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, tiếp tục con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta xây dựng và hướng tới là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Để đạt tới mục tiêu cao cả đó, tất yếu phải trải qua nhiều
chặng đường khó khăn, gian khổ với những bước đi, hình thức phù hợp trong suốt
thời kỳ quá độ. Trước mắt
cần thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ trọng tâm sau:
- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hoá" trong nội bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) gắn với thực hiện có hiệu quả Chỉ
thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh”, không ngừng học tập, nâng cao nhận thức và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực
tiễn công tác xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan
liêu. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ.
- Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng
tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục
thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại
doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm
an toàn nợ công gắn với việc triển khai thực hiện có hiệu quả ba nghị quyết
Trung ương 5 (Khóa XII) về: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Tiếp
tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; Phát triển
kinh tế tư nhân.
- Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để
phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua
thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục
nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
- Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng
tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt
những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh
xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và
giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc.
- Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập
trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm
việc; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh./.
[1] Theo Tạp chí Quốc phòng điện tử,
tại:
http://tapchiqptd.vn/vi/van-de--su-kien/gia-tri-cua-cach-mang-thang-muoi-nga-truong-ton-cung-nhan-loai/4522.html?pageindex=21
[2] Theo báo Nhân dân điện tử, tại
http://www.nhandan.com.vn/thegioi/binh-luan/item/10502902-.html
[3] Theo Báo An ninh Thủ đô điện tử,
tại:
http://anninhthudo.vn/the-gioi/tai-sao-hon-mot-nua-dan-so-nga-luyen-tiec-thoi-ky-xo-viet/708114.antd
[4]
Nguồn: Báo Nhân dân điện tử, tại: http://www.nhandan.com.vn/thegioi/binh-luan/item/10115502-.html
[5] Vì sao Liên Xô sụp đổ I. Đường lối cải tổ sai lầm và sự phản bội của
Gorbachev, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, tại địa chỉ:
http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/ho-so-su-kien/phong-trao-cong-san-cong-nhan-quoc-te/books-410120159545046/index-3101201594943465.html