CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
KHÔNG THỂ LỖI THỜI
GS.TS. TẠ NGỌC TẤN
* Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng lý luận Trung ương.
Thời gian gần đây,
một số
nhà nghiên cứu phương Tây và một bộ phận cán bộ, đảng viên trong nước cho rằng,
trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, bởi vậy chúng ta
không thể xây dựng được một xã hội mới tốt đẹp, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng và văn minh trên nền tảng của học thuyết lỗi thời đó (!).
Câu
hỏi đặt ra là, chủ nghĩa Mác - Lênin có thật là đã lỗi thời không khi xem xét
dưới mọi bình diện, từ ý nghĩa khoa học, mục tiêu xã hội đến ý nghĩa thực tiễn?
Nếu
nó là lỗi thời thì nguyên nhân và cơ sở nào quy định, ngược lại, nếu không lỗi
thời thì tại sao và do đâu?
Trước hết, những người
phủ nhận cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời thường dựa chủ yếu vào 4
lý do sau đây.
Thứ
nhất, chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ những
điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX nên không còn phù hợp với thực tiễn hiện
nay.
Thứ
hai, chủ nghĩa xã hội hiện thực được xây dựng
theo học thuyết của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin ở Liên Xô và các nước Đông
Âu đã bị sụp đổ. Hiện thực sụp đổ có nghĩa là lý thuyết sai lầm.
Thứ
ba, điều kiện kinh tế và xã hội ở các nước
tư bản phát triển được cải thiện rất nhiều so với ở các nước đi theo con đường
xã hội chủ nghĩa, chứng tỏ chủ nghĩa tư bản là ưu việt.
Và
thứ tư,
một loạt sai lầm, khuyết điểm mà các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa,
trong đó có nước ta, đã và đang mắc phải, chứng tỏ lý luận về chủ nghĩa xã hội
là sai lầm và lỗi thời.
Về
lý
do thứ nhất, đúng là học thuyết của C.Mác và
Ph.Ăngghen ra đời
từ giữa thế kỷ XIX, trong điều kiện những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản đã trở
nên gay gắt, phơi bày tất cả bản chất giai cấp của nó cùng với
sự bóc lột người lao động đến cùng cực. C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa những thành
tựu nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, tiếp thu có chọn lọc toàn bộ những
giá trị tinh hoa của quá trình phát triển tư tưởng của nhân loại, đặc biệt là
kinh tế
- chính trị cổ điển Anh, triết học cổ điển Đức và chủ nghĩa xã hội không tưởng
Anh. Những học thuyết về giá trị lao động của Adam Smith và David Ricardo,
phương pháp biện chứng của G.W.F.Hegel, chủ nghĩa duy vật nhân bản của
L.A.Feuerbach, những tư tưởng tiến bộ về xã hội của các nhà tư tưởng Pháp như
H.D.Sain Simon, C.Fourier cũng đóng góp những cơ sở nhận thức quan trọng vào
quá trình hình thành học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen. Cũng cần phải nói rằng,
lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện
ra tính quy luật trong sự vận động của xã hội loài người, trong đó nhân tố quyết định là mối quan hệ biện
chứng giữa lực lượng
sản xuất với quan hệ sản xuất. Đây chính là
cơ sở để C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo về tất yếu loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa
cộng sản qua một giai đoạn quá độ là chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lênin là người
tiếp tục phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen vào thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu
thế
kỷ
XX, trong điều kiện mới khi chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. V.I.Lênin có nhiều
đóng góp vào phát triển các tư tưởng triết học, kinh tế - chính trị của
C.Mác và Ph.Ăngghen. Đặc biệt, V.I.Lênin đã phát triển tư tưởng về khả năng thắng
lợi của cách mạng vô sản ở một nước tư bản riêng biệt; xây dựng học thuyết về một
chính đảng mácxít kiểu mới; tổ chức cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi
và vận dụng học thuyết của C.Mác để phân tích, giải quyết hàng loạt vấn đề trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga và Liên bang Xô viết.
Đến
giữa thế kỷ XX, Hồ Chí Minh là người vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách
sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam để giải quyết những nhiệm vụ to lớn của cách mạng
Việt Nam, đánh đổ những đế quốc lớn, những kẻ thù hung bạo để giành độc
lập, tự do cho dân tộc, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, đưa cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Điều
hiển nhiên và không thể chối cãi là, dù được hiểu theo nghĩa nào, chủ
nghĩa Mác - Lênin
vẫn là khoa học về những quy luật
chung nhất
của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy;
quy luật về sự phát triển của sản xuất xã hội, về cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản và nhân dân lao động chống lại áp bức, bóc lột, mưu cầu tự do, hạnh
phúc; quy luật về
cách mạng xã hội chủ nghĩa và con đường xây
dựng, phát triển
đi tới chủ nghĩa cộng sản. Vào thời điểm ra đời của học thuyết này, những
tác giả của chủ nghĩa Mác - Lênin đã phê phán chủ nghĩa tư bản, chỉ ra bản chất bóc lột, tính
quy luật trong sự tồn tại và phát triển của nó. Sự phê phán đó là sâu sắc và phản
ánh đúng bản chất
của thực tiễn xã hội đương thời. Đó là điều đã được thực tế kiểm nghiệm, được hầu
hết các nhà nghiên cứu xã hội thừa nhận cho dù họ theo xu hướng chính trị nào.
Từ sự phê phán chủ nghĩa tư bản đương thời, từ phát hiện tính quy luật của lịch
sử xã hội loài người và từ cả thái độ nhân văn trước hiện thực tăm tối về sự thống khổ của người
lao động dưới ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, C.Mác, Ph.Ăngghen dự
báo về một xã hội tương lai như một tất yếu lịch sử sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản.
Cần
nói rằng, những gì chủ nghĩa tư bản hiện đại đang thể hiện vẫn không ra ngoài
tính quy luật mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra, càng minh chứng cho tính đúng
đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất
dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, một mặt tăng thêm tiềm lực
cho chủ nghĩa tư bản; mặt khác càng thúc đẩy nhanh hơn quá trình xã hội hóa của
lực lượng sản xuất, dẫn đến những thay đổi chóng mặt về quy mô, tính chất của
quan hệ sở hữu, quản lý, điều hành sản xuất và phân phối của cải xã hội.
Quá trình toàn cầu hóa xuất phát trước tiên từ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa,
nói cho cùng cũng như cái "áo" trong khung khổ từng quốc gia đã quá
chật hẹp, buộc phải nới ra trên phạm vi toàn thế giới. Sự áp bức,
bóc lột của chủ nghĩa tư bản theo đó cũng mở rộng mạnh mẽ ra ngoài chính quốc. Sự bóc lột ấy,
về bản chất, chẳng khác gì hành vi xâm lược thuộc địa của các đế quốc - tư bản chủ
nghĩa trước đây, chỉ có điều nó được che đậy dưới lớp vỏ hào nhoáng,
mỹ miều hơn, nó đi vào các quốc gia nghèo khó bằng cửa chính và bóc lột người
lao động bằng những lề luật văn minh, sạch sẽ hơn.
Càng
giàu mạnh, các thế lực tư bản càng hung hăng, tìm mọi cách để chiếm đoạt các nguồn
tài nguyên, của cải của thế giới, quy phục các quốc gia nghèo khó, yếu thế nhằm
phục vụ cho lợi ích của mình. Cuộc chiến tranh Irắc đã đẩy một quốc gia hòa
bình vào cuộc chiến
đẫm máu, huynh đệ tương tàn suốt hơn một thập niên, đến nay vẫn chưa thấy lối ra. Lý do để
phát động cuộc chiến tranh chống lại một dân tộc có chủ quyền, độc lập,
cách xa nước Mỹ hàng vạn cây số là tàng trữ "vũ khí giết người
hàng loạt", nhưng từ sau chiến dịch Bão táp sa mạc đến giờ
người ta đã đào bới, xới lộn cả nước Irắc mà không tìm thấy cái gì là
"vũ khí giết người hàng loạt". Nhưng thực tế thì chính nước Mỹ đang
tàng trữ lượng vũ khí hạt nhân đủ phá hủy nhiều lần cuộc sống của nhân loại
trên toàn cầu. Đất nước Libi hòa bình cũng trở thành hỗn loạn sau khi Mỹ và các
đồng minh phương Tây can thiệp lật đổ chính quyền dân cử Muhammad al-Gaddafi. Cho
dù Tổng thống
Mỹ và Thủ tướng Anh đã xin lỗi, nhưng điều ấy có nghĩa gì khi đất nước Irắc và Libi
đã tan hoang, hàng vạn người dân lành đã chết, hàng triệu người dân đang sống trong những
điều kiện tồi tệ nhất1.
Ngay với nước Mỹ,
hàng nghìn thanh niên đã bỏ xác ở Irắc, ở Trung Đông một cách vô nghĩa. Chắc chắn
trong số những thanh niên Mỹ đã chết vô ích ấy không và không thể có con cái các nhà
tư bản, các ông chủ ngân hàng. Vậy, lý do cuộc chiến Irắc là gì nếu không phải
là dầu mỏ và lợi ích của những ông chủ, các nhà tư bản Mỹ? Một loạt cuộc cách mạng
màu do bàn tay Mỹ và các nước phương Tây phát động ở Libi, Xyri, Ai Cập... đều
có chung một hình thái bên ngoài, mục đích ẩn giấu bên trong và hậu
quả tồi tệ không khác gì với cuộc chiến ở Irắc.
Mặt khác, nếu nhìn nhận từ góc độ nhân văn thì chủ nghĩa xã hội là ước vọng ngàn đời của tất cả những người dân lao động, của những con người có lương tâm cùng tình thương nhân loại, muốn sống trong hòa bình, nhân ái. C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học khi nhìn nhận nó từ quy luật vận động của lịch sử, như sự vận động tất yếu từ những cơ sở xã hội, những yếu tố kinh tế, vật chất vốn đã được hình thành ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản. Như vậy, chủ nghĩa xã hội là phù hợp và hợp lý cả về phương pháp luận khoa học và tính mục đích nhân văn. |
Với
tính chât là một học thuyết khoa học, những người khai sinh ra chủ nghĩa Mác -
Lênin chưa bao giờ muốn
và chưa có bất cứ một mệnh đề phán đoán nào để quy các luận điểm trong học thuyết
của mình về cách mạng xã hội hay về xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai thành những
tín điều siêu hình, cứng nhắc. Trong tác phẩm Những
nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph.Ăngghen đã trả lời
hàng loạt vấn
đề lý luận liên quan trực tiếp đến chủ nghĩa xã hội khoa học như: Thế nào là
giai cấp
công nhân và đảng cộng sản; Quan hệ giữa giai cấp công nhân với
đảng cộng sản; Hiếu thế nào là xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa và xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; Mối quan hệ ra sao
giữa giai cấp
công nhân, dân tộc và quốc tế; Các giải pháp cần thiết để tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa...
Trong
rất
nhiều tác phẩm, C.Mác và Ph.Ăngghen đều nhấn mạnh tầm quan trọng của nhận thức,
đánh giá, tổng kết thực tiễn để thường xuyên bổ sung, phát triển lý luận, nhất
là lý luận về con đường hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Trong Lời tựa viết cho bản
tiếng
Đức “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản" xuất bản năm 1872,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết rằng: "Chính ngay "Tuyên ngôn" cũng
đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc
áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và
do đấy,
không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương
II"[1].
Quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm phát triển cũng luôn được V.I.Lênin
quán triệt vận dụng trong nhiều nhận thức thực tiễn giải quyết mối quan hệ gắn
bó giữa lý luận với thực tiễn. Chính
sách Kinh tế mới
chính là một dẫn chứng thực tế sáng rõ về quan điểm đó. Chính V.I.Lênin đã có một
định nghĩa đầy tính thực tiễn về chủ nghĩa xã hội mà lâu nay đôi khi những người
hậu thế đã bỏ quên hoặc bảo thủ với những định kiến mà không nhìn
nhận một cách đúng đắn và nghiêm túc.
Vậy
thì tại sao có thể nói, chủ nghĩa Mác - Lênin là lỗi thời. Chủ nghĩa Mác -
Lênin không thể lỗi thời mà chính những người cố tình phủ nhận
chủ nghĩa Mác - Lênin mới là những người nhầm lẫn, sai lầm, cố tình không nhìn
thấy
bản chất
khoa học
và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hoặc giả, họ đã cố tình xuyên tạc chủ
nghĩa Mác - Lênin vì một lý do chính trị, vì muốn xóa bỏ chủ
nghĩa Mác - Lênin để bảo vệ cho chủ nghĩa tư bản và quyền lợi của một nhóm người
tư bản, hoặc được hưởng lợi không chính đáng từ guồng máy của chủ nghĩa tư bản.
Nếu có lỗi thời, thì chính là lỗi thời ở cách mà chúng ta chưa nghiên cứu đủ
sâu sắc, chưa vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách đúng đắn vào thực tiễn để
giải quyết các vân đề trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuyệt nhiên
không thể
là sự lỗi thời của chủ nghĩa Mác - Lênin!
Về
lý do thứ hai,
sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu phải
chăng như một bằng chứng hiển nhiên của sự sai lầm, lỗi thời của chủ nghĩa Mác
- Lênin và cùng với nó là con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội? Phải chăng có một
lôgíc thực tế là chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ là do lý thuyết về chủ nghĩa
xã hội là sai lầm?
Trước
hết, cần phải nói rằng, mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thực tế đã mang
lại sự thay đổi rung trời chuyển đất, tạo ra một mảng sáng không thế phủ nhận ở
Liên Xô, Đông Âu và một loạt nước trên thế giới. Nó đã mang lại cuộc sống tốt đẹp
cho một phần to lớn của nhân loại. Nó đã tạo nên một sức mạnh mà trước đó
không thể tưởng tượng về nguồn lực vật chất và tinh thần, đủ sức để động viên sức
người, sức của, tạo thành lực lượng chủ yếu đánh thắng cả những lực lượng to lớn
của liên minh các thế lực tư bản trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
cũng như đội quân phát xít tàn bạo của trục ma quỷ trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Bằng
thực tế sinh động tốt đẹp trên các đất nước xây dựng
chủ nghĩa xã hội, nó đã động viên, thúc đẩy cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ,
hòa bình, giải phóng dân tộc trên toàn trái đất.
Hàng loạt dân tộc bị áp bức đã giành được độc lập, tự do dưới ảnh hưởng và sự
giúp đỡ vô tư của các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô dẫn đầu. Chính chủ nghĩa
xã hội và cuộc đấu
tranh rộng lớn, mạnh mẽ của nhân dân lao động trên toàn thế giới đã là động
lực thúc đẩy, buộc các thế lực tư bản, đế quốc phải thừa nhận
quyền tự do, độc lập của các dân tộc trong hệ thống thuộc địa rộng
lớn của chủ nghĩa tư bản thực dân, đế quốc; mặt khác, tạo thành sức ép, buộc các
thế lực tư bản có những cải cách xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân lao động
ở chính quốc. Chủ nghĩa xã hội
đã là một hiện thực hùng mạnh đủ để những chiến lược gia, các nhà lý luận tư sản
phải run sợ, đã đưa ra những dự báo về sự thất bại, kết thúc không thể đảo ngược của
chủ nghĩa tư bản. Những thừa nhận đắng cay của Henry Kissinger, Brêginxki thời
kỳ những năm 60, 70 của thế kỷ XX vẫn còn nguyên đó trong các cuốn sách, bài
báo của họ.
Tất
nhiên, sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đã
là một bài học đau đớn không chỉ cho những người cộng sản, mà còn cho cả nhân
loại tiến
bộ. Đó là kết quả của sự bảo thủ, không nhìn thẳng vào thực tế, chậm đổi mới nhận
thức và đổi mới các chính sách cũng như những giải pháp cần thiết để giải quyết
những vấn
đề nảy sinh từ thực tiễn, những mâu thuẫn tất yếu nảy sinh trong quá trình xây
dựng và phát triển đất nước. Đó cũng chính là sự sai lầm của những người cộng sản
ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây mắc phải do không nhận thức
đúng đắn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính biện chứng và
quan điểm lịch sử -
cụ thể trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã cố chấp và
thiên kiến
mà bỏ qua bài
học phương pháp luận quý báu của V.I.Lênin, không "dùng cả hai tay mà
lấy
những cái tốt nhất
của nước ngoài" để xây dựng, phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa.
Mặt
khác, sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự sụp
đổ của một mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội cụ thể. Tuyệt nhiên đó không phải
là sự sụp đổ của một học thuyết khoa học, càng không thể là sự sụp đổ về một tương
lai tốt đẹp mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới. Điều ấy không chỉ được
minh chứng bằng việc ngay ở thời điểm hiện nay, một loạt nước ở tây bán cầu cận
kề nước Mỹ đang tìm tòi con đường và cách thức để xây dựng chủ nghĩa xã hội
theo một mô hình mới. Nó cũng được minh chứng bởi một loạt quốc gia ở chính
châu Âu, nhất
là Bắc Âu đã và đang lấy chủ nghĩa xã hội làm mục đích và cảm hứng
để xây dựng, phát triển đất nước mình. Không phải không có lý do, khi họ tự gọi
mình là mô hình chủ nghĩa xã hội phúc lợi. Đương nhiên còn một minh chứng hiện
hữu là một số nước kiên trì đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt
Nam, đã đạt được những thành tựu có tính lịch sử trong xây dựng, phát triển.
Từ
tất cả thực tế ấy, không thể nói rằng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các
nước khác sụp đổ trong những năm cuối thế kỷ XX có nghĩa là học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội
là sai lầm và lỗi thời và ngược lại, sẽ là ảo tưởng khi nghĩ rằng chủ nghĩa tư
bản đang thắng thế. Thực tế đang chỉ ra rằng, chính chủ nghĩa tư bản đang đứng
trước những thách thức đầy nguy hiểm. Chính sự mâu thuẫn lợi ích, căn bệnh bản
chất của chủ nghĩa tư bản đang làm nảy sinh sự chia rẽ khó tránh khỏi trong các
liên minh tưởng chừng bền vững của họ. Hiện tượng Brexit của nước Anh chỉ là một
dấu
hiệu đầu tiên và tất
yếu
của sự chia rẽ từ chính trong lòng của nó khi chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu mất đi đối trọng là khối các nước xã hội
chủ nghĩa. Khi không còn phải đối mặt với nguy cơ từ bên ngoài thì những
mâu thuẫn không thể tránh khỏi về lợi ích sẽ hiện nguyên hình, phá vỡ mối liên kết yếu ớt của các thế
lực tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, những cuộc khủng bố đã hiện diện
ngay trung tâm của châu Âu, không chỉ đe dọa an ninh mà còn tạo nên sự bất ổn sống còn của chế độ
tư bản chủ nghĩa. Vụ khủng bố ở thành phố Nice giữa đêm Quốc khánh nước
Pháp làm hơn 80 người chết và vụ khủng bố bằng phương thức
như thế được lặp lại ở Berlin, thủ đô nước Đức ngày 18-12-2016 làm 12 người chết,
gần 50 người bị thương, không chỉ báo hiệu mối nguy lớn về an ninh của châu Âu
mà còn là hệ quả tất yếu cho chính sách sai lầm, vụ lợi của chủ nghĩa tư bản
trong cách hành xử với các nước nghèo, các quốc gia Bắc Phi và
Trung Đông.
Về
lý do thứ ba,
sự hơn hẳn về điều kiện vật chất, trình độ phát triển về kinh tế, khoa học -
công nghệ và một số
lĩnh vực khác của các nước tư bản phát triển so với các nước đi theo con đường
xã hội chủ nghĩa hiện nay phải chăng đã minh chứng cho tính ưu việt của chủ
nghĩa tư bản? Đúng là không ai có thể phủ nhận một thực tế là các nước tư bản
chủ nghĩa phát triển đã có được những thành tựu phát triển về kinh tế, khoa học -
công nghệ kéo theo những cải thiện nhất định về điều kiện sống của người
dân. Nhưng đó mới chỉ là cách nhìn thực tại, phiến diện, không thấy đằng sau và
phía trước của sự phát triển ấy là gì?
Trước
hết, cần phải nhìn cho rõ những thành tựu đó do đâu mà có. Chủ nghĩa tư bản đã
có nhiều trăm năm phát triển. Trên con đường phát triển của chủ nghĩa tư bản,
bánh xe vận hành của nó đã lăn đi trong ngập ngụa máu và nước mắt của nhân loại
cần lao, thống
khổ trên khắp các lục địa. "Những
nước tư bản hiện đại là kết quả của một lịch
sử nô dịch, diệt
chủng, bạo lực và bóc lột một cách ghê tởm"',
đó là lời tự thú có tính chất phản tỉnh của Terry Eagleton - một học
giả người Anh.
Chỉ cần giở lại các trang lịch sử của nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Tây Ban
Nha... sẽ thấy ngay những gì mà chế độ tư bản đã hành xử với đồng loại của
mình. Những kẻ thực dân từ cựu lục địa châu Âu đã phá vỡ cuộc sống bình yên hàng
nghìn năm của các bộ tộc người da đỏ, chiếm đoạt đất đai của họ bằng gươm, súng và
cả sự tra tấn dã man, rùng rợn ngoài trí tưởng tượng, bằng cách lột da đầu.
Trong cuốn
sách Sự tàn sát khủng khiếp cuối thờỉ
Victoria (Late Victorian Holocausts), học giả
người Anh đã viết rằng, hàng chục triệu người Ấn Độ, châu Phi, Trung Quốc,
Braxin, Triều Tiên, Nga và nhiều nước khác đã chết do đói, hạn hán và dịch bệnh
vào cuốì
thế kỷ XIX dưới chế độ thực dân xâm lược. Và ngay ở chính các nước tư bản giàu
có hiện nay, có ai dám chắc mọi người dân đều có cuộc sống tốt đẹp. Hàng
chục triệu người dân Mỹ không có bảo hiểm y tế chỉ có cách chờ
tử thần khi mắc bệnh. Ở
bang California,
quá nửa nam giới người da đen có ít nhất một lần trong đời phải đi tù...
Là
người Việt Nam không ai có thể quên được nỗi thống khổ của nhân dân ta
trong đêm trường nô lệ hơn 80 năm dưới ách đô hộ của chủ nghĩa tư bản thực dân
Pháp. Bao nhiêu người dân Việt Nam đã chết trong các xưởng máy, hầm lò, trên
các cung đường, các bến
tàu. Những cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa
Thám, Yên Bái, Xôviết Nghệ Tĩnh... bị dìm trong bể máu. Hơn hai triệu người chết
đói năm 1945. Thực dân Pháp bóc lột người dân thuộc địa Việt Nam đến tận xương
tủy, vơ vét từ vàng, than, sắt, đồng cho đến cả phân bắc để mang về làm
giàu cho chính quốc.
Gần 20 năm, đế quốc
Mỹ thay chân thực dân Pháp thiết lập nền thống trị, giày xéo đất nước ta. Những
nhà tù địa ngục trần gian ở Côn Đảo, Phú Quốc..., những vụ tàn sát ở Thái Bình
(Bình Định) năm 1966, Bình Hòa (Quảng Ngãi) năm 1966, Mỹ Lai (Quảng Ngãi) năm
1968..., vụ ném bom B52 rải thảm khu phố Khâm Thiên, Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội),
phải chăng đó không phải là tội ác thấu trời của chế độ tư bản Mỹ? Ngỡ tưởng,
không phải nhìn đâu xa, chính những trang lịch sử khắc nghiệt và đau thương ấy đã đủ để cho
các thế hệ chúng ta và con cháu chúng ta hiểu được bản chất của chủ nghĩa
tư bản! Vậy mà lạ lùng
thay, vẫn có người bước ra khỏi biên giới đã hết lời khen hay, khen đẹp cho các
nước tư bản, cho các thành phố hào hoa Tây Âu. Họ có biết đâu hoặc cố tình không biết
rằng, những thành phố
đó đã trải qua mấy
trăm năm xây dựng bằng sức lao động của bao thế hệ người lao động và cả của cải
bóc lột từ các thuộc địa mang về.
Việc
xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa là công việc rất khó,
mang tính khoa học, có tính quy luật, đòi hỏi thời gian, nguồn lực, sự lãnh đạo
chính trị đúng đắn và các điều kiện cần thiết khác. Theo C.Mác, chủ nghĩa xã hội
chỉ có thể thành công ở một loạt nước tư bản phát triển ở trình độ cao. Nó như
là tất
yếu thay đổi quan hệ sản xuất xã hội khi lực lượng sản xuất dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa đã phát triển, xã hội hóa cao độ, không thể tiếp tục tồn tại trong
khuôn khổ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đối với Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, tất cả đều có điểm xuất phát là các nước
tư bản có trình độ phát triển thấp hoặc trung bình. Thời gian xây dựng chế
độ xã hội chủ nghĩa hầu như còn rất ngắn.
Liên
bang Xôviết (Liên Xô) được thành lập và bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội năm
1921, khi vừa ra khỏi cuộc nội chiến. Mới chỉ có chưa đầy 20 năm hòa bình
xây dựng, Liên Xô đã phải trải qua cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại với sự
tàn phá vô cùng nặng nề sức người và sức của. Hơn 20 triệu
người chết, hàng loạt thành phố, làng mạc từ biên giới với Ba Lan
cho đến phía tây Mátxcơva bị san phẳng. Từ sau năm 1945, Liên Xô chỉ có hơn 30
năm xây dựng trong hòa bình, đồng thời phải đối mặt với cuộc
chạy đua vũ trang do Mỹ và phe đế quốc khởi xướng. Tương tự như vậy, các nước
xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cũng chỉ có xấp xỉ 30 năm xây dựng, nhưng những thành
tựu mà các nước này đạt được là vô cùng to lớn, thậm chí có lĩnh vực vượt qua cả
Mỹ và các nước
tư bản Tây Âu.
Ngoài việc thiết lập cuộc sống công bằng, cải thiện nhanh chóng về
nhà ở, giáo dục, văn hóa cho nhân dân, Liên Xô còn đi đầu thế giới về khoa học
- công nghệ vũ trụ.
Vào thời kỳ phát triển nhất, Cộng hòa dân chủ Đức là quốc gia bảo đảm điều kiện
sống cho trẻ em tốt nhất thế giới. Một yếu tố không thể không nhắc tới là Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã trở thành đối thủ chính trị không
đội trời chung của chủ nghĩa tư bản ở các nước phương Tây. Người dân các nước
phương Tây và các dân tộc thuộc địa nhìn vào các nước xã hội chủ nghĩa như tấm
gương, niềm hy vọng cho cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập, đòi dân chủ, dân
sinh. Các thế lực tư bản chủ nghĩa nhìn vào đó như mục tiêu phá hoại phải loại
bỏ bằng được. Cho đến hôm nay, khi Chiến
tranh lạnh đã lùi xa hơn 25 năm, nhưng hầu
như cách ứng xử trước đây vẫn còn nguyên trong những trừng phạt kinh tế mà các
nước tư bản phương Tây nhằm vào nước Nga.
Đối
với Việt Nam, chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước thống nhất theo con đường
xã hội chủ nghĩa sau một cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài suốt 30 năm. Ngay
sau đó, chúng ta lại phải đối mặt với cuộc xung đột biên giới Tây Nam và cuộc
xung đột biên giới phía Bắc. Trên thực tế, đất nước chỉ ra khỏi cuộc chiến từ
năm 1989. Chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước từ con số 0 khi tất cả những
gì có được sau mấy năm hòa bình xây dựng ngắn ngủi đã bị tàn phá hoàn toàn. Hơn
thế, hậu quả chiến tranh vô cùng nặng nề. Hàng vạn thương, bệnh binh, người
già, trẻ em không nơi nương tựa. Đồng ruộng đầy bom, đạn, mìn còn lại. Những gì
chúng ta có được hôm nay sau 30 năm xây dựng là đáng trân trọng, đáng tự hào, mặc
dù chưa phải đã được như mong đợi. Đương nhiên là không thể so sánh với các nước
tư bản đã có mấy trăm năm phát triển mà không cần quan tâm đến sự thống khổ, hy
sinh của lớp lớp người lao động thuộc địa và ở chính quốc. Tuy nhiên, công việc
xây dựng một xã hội mới chưa từng có tiền lệ, không bao giờ là dễ dàng, có tính
quy luật của nó, không thể xong trong thời gian ngày một, ngày hai, không thể đốt
cháy giai đoạn.
Như
vậy, rõ ràng là sai lầm khi chỉ nhìn vào bề ngoài những gì đang có ở các nước
tư bản phát triển để so sánh đánh giá tính ưu việt của chế độ tư bản chủ nghĩa
so với chế độ xã hội chủ nghĩa. Chỉ có bằng sự phân tích sâu sắc, toàn diện, bằng
cách nhìn công bằng, lịch sử mới
thấy được nguồn gốc, bản chất của
sự giàu có của các nước tư bản phát triển, từ đó mới thấy hết được những thành
công và đóng góp to lớn
của chủ nghĩa xã hội cho sự phát triển của nhân loại và tiến bộ xã hội.
Về
lý do thứ tư,
phải chăng sự bảo thủ, trì trệ trong nhận thức, những sai lầm, hạn chế và khó
khăn trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa là bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lênin?
Trước
hết, chúng ta không hề giấu giếm những sai lầm, hạn chế và khó khăn trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng trình bày tại Đại hội XII chỉ rõ: "Tăng trưởng kinh tế thấp
hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp... Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi... Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, kỷ luật chưa
nghiêm...”1.
Đảng
cũng nghiêm khắc thừa nhận rõ rằng, tình trạng trên có những nguyên nhân khách
quan nhưng "trực tiếp và quyết định nhất là nguyên
nhân chủ quan". Đó là những hạn
chê trong đánh giá, dự báo tình hình, trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, trong công tác lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy, chính quyền,..
Việc
có những sai lầm, khuyết điểm, khó khăn, hạn chế trong quá trình xây dựng đất
nước âu cũng là khó tránh khỏi. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc vô cùng
khó khăn, phức tạp, có tính khoa học, đòi hỏi thời gian, nguồn lực to lớn và
nhiều điều kiện khác. Chúng ta bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài
suốt 30 năm. Khó khăn lớn nhất trước hết không phải từ sự thiếu thốn về của cải,
vật chất mà đa phần chính ở quan điểm, tác phong mang nặng tính chất của nền
văn hóa nông nghiệp. Không có kinh nghiệm tiền lệ, không có sự hỗ trợ của phe
xã hội chủ nghĩa như trước đây, nhiều thế lực đang nhòm ngó, chống phá, trong
điều kiện ấy, những thành tựu mà công cuộc đổi mới đạt được là đặc biệt quan trọng.
Chúng ta đã duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao trên 6,5%/năm trong suốt 30 năm
thực hiện chính sách đổi mới. Từ GDP bình quân đầu người chỉ 80 USD đã tăng lên
mức trên 2.100 USD. Đời sống nhân dân đã được cải thiện một bước cơ bản. Những
điều đó là không thể phủ nhận và mặc nhiên đã được nhiều tổ chức, cá nhân trên
thế giới, trong đó có nhiều học giả phương Tây thừa nhận.
Để
có được những thành tựu to lớn đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những bước
đi dũng cảm về nhận thức, sự đổi mói mạnh mẽ về chính sách kinh tế - xã hội. Từ
một nền kinh tế bao cấp hoàn toàn dựa trên sở hữu công cộng, chuyển sang xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, rồi chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường
định hướng
xã hội
chủ nghĩa; từ một nhà nước xây dựng theo mô hình nền chuyên chính
vô sản chuyển sang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; từ chỗ bị bao
vây cấm vận, chỉ có quan hệ với các nước khối xã hội chủ nghĩa là chủ yếu chúng
ta đã mở cửa, hội nhập quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia
và vùng lãnh thổ trên tổng số 193 thành viên Liên hợp quốc, trong đó có 2 đối
tác toàn diện đặc biệt, 15 đối tác chiến lược, 11 đối tác toàn diện, 2 đối tác
chiến lược theo từng lĩnh vực.
Từ thực tế ấy, không thể có lý gì để nói rằng, Đảng và Nhà nước Việt
Nam bảo thủ, cố chấp hay định kiến mà không đổi mới nhận thức, đổi mới chính
sách về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng như không thể đổ
cho học thuyết Mác - Lênin có lỗi trong những khó khăn, hạn chế, sai lầm của
quá trình xây dựng, phát triển đất nước.
Tóm
lại, sự sai lầm của những người phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện ngay
trong chính những cơ sở, lý do để họ phản bác chủ nghĩa Mác - Lênin. Ở đây, hoặc
là có sự hiểu nhầm về tính chất của học thuyết - chủ nghĩa Mác - Lênin, hoặc là
biết nhưng vẫn cố tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin với định kiến và mục
đích chính trị là thay đổi nền tảng tư tưởng, đường lối, mục tiêu xây dựng chủ
nghĩa xã hội bằng một lý thuyết khác, bằng một mô hình xã hội khác. Mục đích ấy
đơn thuần để phục vụ cho lợi ích của một nhóm người nào đó, hoàn toàn không phải
vì lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân, không phải vì lợi ích chung của dân tộc.
Song,
việc nghiên cứu, chỉ ra những sai lầm, xuyên tạc đối với chủ nghĩa Mác - Lênin
không chỉ đơn thuần là để bảo vệ sự trong sáng, tính khoa học, nhân văn của chủ
nghĩa Mác - Lênin mà
còn là sự cảnh báo, là lý do để những người cộng sản cảnh giác với nhận thức của
mình về chủ nghĩa Mác - Lênin, để tìm hiểu rõ hơn, quán triệt sâu sắc, thường
xuyên hơn quan điểm thực tiễn, quan điểm lịch sử - cụ thể khi vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin vào việc đề ra đường lối, hoạch định chính sách xây dựng,
phát triển đất
nước.
- Terry Eagleton: Tại sao Mác đúng? Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2012, tr.40.
- C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quôc gia, Hà Nội, 1995, t.18, tr.128.
- C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quôc gia, Hà Nội, 1995, t.18, tr.128.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật Hà Nội, 2016, tr.60-61.
- Terry Eagleton: Tại sao Mác đúng? Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2012, tr.40.
- Ngày 10-4-2016, khi trả lời phỏng vân Hãng tin Fox News, Tổng thống Mỹ, Barack Obama đã thừa nhận rằng, sai lầm tồi tệ nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của ông là đã không chuẩn bị một kế hoạch lâu dài cho Libi sau khi lật đổ Tổng thống Muhammad al-Gaddafi, đế gây nên tình ữạng hỗn loạn ở nước này. Năm 2015, cựu Thủ tướng Anh Tony Blair cũng đã thừa nhận sai lầm và xin lỗi về việc đưa quân đội Anh tham gia cuộc chiến ở Irắc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét