Thứ Tư, 11 tháng 4, 2018

PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỂM:"ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM KHÔNG THỂ ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG, SUY THOÁI THÀNH CÔNG


Những năm gần đây, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn hết sức quan tâm lãnh đạo công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó tập trung đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, suy thoái trong cán bộ, đảng viên. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân đang triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng và các nghị quyết Trung ương, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Nhân dịp này, lợi dụng tình hình dư luận xã hội đang bức xúc về tệ nạn tham nhũng, suy thoái của một số cán bộ, đảng viên, nhất là những người giữ các vị trí lãnh đạo cơ quan chính quyền, quản lý kinh tế; công tác xây dựng Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, suy thoái của Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm, dẫn đến kết quả chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đặt ra.., một số người đã tung ra luận điểm "Đảng Cộng sản Việt Nam không thể đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái thành công". Luận điểm này chỉ là đơn lẻ của một số người và chỉ dựa trên mấy luận chứng chủ quan, võ đoán: Tham nhũng, suy thoái là căn bệnh kinh niên của chế độ độc đảng cầm quyền; vì xã hội ta thiếu dân chủ nên không thể chống tham nhũng, suy thoái thành công; đã nhiều lần phát động chống tham nhũng, suy thoái nhưng đều không thành công, tệ nạn lại càng gia tăng (!); từ đó, họ kết luận cuộc đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể thành công (!).

Muốn dự báo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái có thành công hay không, phải dựa trên các luận chứng khoa học; lại phải có cách đánh giá khách quan, toàn diện, dự báo đúng chiều hướng phát triển của tình hình.

Quốc gia nào cũng vậy, trong từng thời điểm đều do một đảng cầm quyền. Khi đảng nào cầm quyền thì người đứng đầu và các chức vụ quan trọng của chính quyền nhà nước đều là người của đảng đó; đường lối, chủ trương của đảng cầm quyền sẽ chi phốỉ đường lối, chính sách của quốc gia. Dù là chế độ một đảng cầm quyền hay đa đảng thay nhau cầm quyền thì nạn tham nhũng, suy thoái vẫn thường xảy ra, kể cả các nước phát triển có hệ thống pháp luật khá hoàn chỉnh, có trình độ quản lý kinh tế, xã hội cao.

Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời, lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền, cán bộ, đảng viên của Đảng tuyệt đại đa số đều là những nhà cách mạng tự nguyện từ bỏ lợi ích bản thân, xả thân chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Nhiều tấm gương hy sinh oanh liệt của các nhà lãnh đạo Đảng, các cán bộ, đảng viên mãi mãi lưu danh trong lịch sử vẻ vang của Đảng như: Trần Phú, Lê Hổng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Hoàng Văn Thụ... Tuy nhiên, ngay từ đó, trong cuộc đấu tranh lưu huyết một sống, một chết dưới ách thống trị tàn bạo của chính quyền thực dân, phong kiến cũng đã có những người không chịu nổi thử thách gian nguy, tự rời bỏ hàng ngũ cách mạng, thậm chí đầu hàng địch, phản bội cách mạng. Những người thiếu kiên trung với cách mạng, có biểu hiện dao động, cầu an, Đảng đã thải loại họ. Nhưng đó chỉ là những trường hợp hết sức cá biệt. Đảng không vì thế yếu đi mà ngày càng trong sạch và phát triển vững mạnh, được các tầng lớp nhân dân tin tưởng, tôn vinh vai trò lãnh đạo và tình nguyện chiến đấu dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng.

Hoạt động bí mật, bất hợp pháp, trong điều kiện vô cùng khó khăn, nguy hiểm, trải qua ba cao trào cách mạng đấu tranh kiên cường bất khuất, dũng cảm, mưu trí, Đảng càng trưởng thành, cách mạng càng phát triển. Đến tháng 8-1945, chỉ với khoảng 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đương nhiên trở thành đảng cầm quyền. Cũng là thông lệ, đảng cầm quyền thì đảng phải thực hiện quyền lãnh đạo chính quyền nhà nước, lãnh đạo xã hội. Đảng viên của đảng sẽ giữ chức danh đứng đầu các cơ quan chính quyền nhà nước. Ở vị trí đó, có chức, có quyền, dễ xảy ra quan liêu, tham nhũng. Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Lãnh tụ Hồ Chí Minh đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết. Trước nguy cơ giặc ngoài, thù trong, vận mệnh của dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc", để tránh sức ép và vu cáo của địch, Đảng ra tuyên bố tự giải tán, rút vào hoạt động bí mật. Nhiều đảng viên cộng sản trước đây lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám, được giao các chức danh trong Chính phủ lâm thời, đã tự nguyện từ chức để nhường chức danh đó cho người không đảng phái hoặc đảng phái đối lập. Với đội ngũ công chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng đã xác định: "Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật" .

Trong thời kỳ chiến tranh giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Người chỉ rõ Tư cách của đảng chân chính cách mạng gồm 12 điều, trong đó có các điều rất hệ trọng chống sự suy thoái của Đảng:
- Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài.
- Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình.
- Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa.
- Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng .

Với cán bộ, đảng viên, Người dạy: Tính đảng của cán bộ, đảng viên là đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của Tổ quốc lên trên hết .

Thời chiến, mâu thuẫn dân tộc lên cao độ, mọi người đều dồn tâm lực vào việc đánh giặc cứu nước, lại được Bác Hổ và Đảng giáo dục, rèn luyện nên hầu hết cán bộ, đảng viên ra sức phấn đấu hoàn thành chức trách, nhiệm vụ, xứng đáng là những người cách mạng chân chính.

Trong hai cuộc chiến tranh giải phóng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thật sự xứng đáng là đội tiên phong cách mạng lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, đánh thắng hai đế quốc lớn mạnh, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Trong kháng chiến, đảng viên cộng sản là những người tiên phong nhận nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm, chấp nhận hy sinh bản thân mình để giành thắng lợi cho dân tộc. Họ đã trở thành những anh hùng bất tử, nêu tấm gương sáng cho bộ đội và nhân dân noi theo, quyết chiến, quyết thắng với quân thù.

Có chăng một ít người phạm vào tội lỗi tham ô, lãng phí, quan liêu. Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi đó là "giặc nội xâm", là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến. Tội lỗi đó làm hại đến tính mệnh và tài sản của nhân dân, làm mất thanh danh, uy tín của Đảng và Nhà nước. Người phạm tội đó dù ở cương vị nào cũng phải đem ra xét xử theo đúng pháp luật để đề cao phép nước. Bản án tử hình dành cho Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu, Bộ Quốc phòng (năm 1950) về tội lợi dụng chức quyền nhận hối lộ, tham ô, sa đọa, thể hiện sự nghiêm minh của Đảng, Chính phủ trong thực thi pháp luật.
Chính vì sự tự giác nêu gương của cán bộ, đảng viên và việc Đảng, Nhà nước xử lý không khoan nhượng đối với những người phạm tội với cách mạng, với nhân dân đã khiến cho Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo kháng chiến thắng lợi.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, biết bao cán bộ, đảng viên quân đội ngày đêm ở nơi xa xôi biển, đảo, biên cương canh giữ chủ quyển đất nước; nhiều cán bộ, đảng viên công an dũng cảm chiến đấu trên mặt trận thầm lặng, giữ gìn an ninh chính trị và cuộc sống yên bình cho nhân dân; những cán bộ, đảng viên trực tiếp sản xuất vất vả trong nhà máy, trên đồng ruộng; những cán bộ, đảng viên lao động trí óc ngày đêm miệt mài nghiên cứu, sáng tạo... đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp chung, không tính toán thiệt hơn, không đòi hỏi sự ưu ái cho riêng mình.
Đó là những bằng chứng lịch sử minh chứng cho đánh giá của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII: Nhìn một cách tổng thể, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng hơn 86 năm qua, Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày nay. Đó là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự hy sinh quên mình và đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Như vậy, thực tế nền chính trị các quốc gia trên thế giới và lịch sử chế độ chính trị Việt Nam hiện đại đã chứng tỏ chế độ một đảng cầm quyền không phải là nguyên nhân sinh ra tệ nạn tham nhũng, suy thoái trong xã hội.

Vấn đề dân chủ trong xã hội là một vấn đề lớn, không một quốc gia nào dám tự coi là đã thực hiện một cách hoàn hảo. Mỗi quốc gia, dân tộc thực hiện dân chủ xã hội còn tùy thuộc vào tình hình chính trị - xã hội, sự hoàn thiện hệ thống pháp luật, trình độ phát triển kinh tế, xã hội, truyền thống, phong tục, tập quán dân tộc và trình độ dân trí...

Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, tuy còn là nước nghèo, kinh tế chậm phát triển, dân trí thấp, phải vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam, vừa xây dựng, bảo vệ miền Bắc, nhưng dưới chế độ mới, Đảng, Nhà nước đã thực hiện những quyền tự do dân chủ căn bản cho nhân dân, tạo nên cuộc sống chính trị, tinh thần rất tốt đẹp, nhân dân ta đã không còn bị áp bức, bóc lột, thực sự làm chủ vận mệnh của mình.

Trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái, Đảng, Nhà nước đã ban hành cơ chế, tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia như chế độ tiếp dân, đường dây nóng ở các công sở hành chính sự nghiệp để nhân dân trực tiếp phản ánh biểu dương người tốt, việc tốt, tố cáo những hành vi quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Tuy việc này còn có hạn chế nhất định, nhưng ý kiến của cử tri qua các cơ quan dân cử, sự giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp, sự điều tra, thông tin của các cơ quan thông tin đại chúng, nhiều công dân dũng cảm đứng lên tố giác những hành vi tham nhũng, suy thoái của tổ chức đảng, chính quyền, các cán bộ, đảng viên... đã góp phần tích cực, có hiệu quả vào cuộc đấu tranh này; nhiều vụ tham nhũng, suy thoái đã được xử lý kỷ luật đảng và pháp luật nhà nước xét xử nghiêm minh.
Như thế, luận chứng vì xã hội ta thiếu dân chủ nên không thể chống tham nhũng thành công là thiếu căn cứ, không thuyết phục.

Về hiện tượng quan liêu, tham nhũng, đúng ra, bắt đầu xuất hiện ở miền Bắc trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, nhưng mức độ chưa nghiêm trọng và chủ yếu là ở cơ sở. Do phải tập trung vào công cuộc kháng chiến, Đảng và Nhà nước chưa có điều kiện ngăn chặn kịp thời những hiện tượng tiêu cực xã hội đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có ý tưởng là sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước thì việc cần làm ngay là chỉnh đốn Đảng. Do quá nhiều việc cần làm sau chiến tranh, chưa đánh giá được chiều hướng gia tăng và mức độ nguy hại của tệ nạn tham nhũng, suy thoái trong cán bộ, đảng viên, nên công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng tuy vẫn làm thường xuyên, nhưng việc thực hiện chưa được kiên quyết và hiệu quả.

Ở nước ta, khi cách mạng chuyển giai đoạn, cuộc sống trong hòa bình xây dựng đất nước, cộng thêm sự chống phá của các thế lực thù địch và sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế làm xuất hiện sự phức tạp về tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên được trao cương vị quản lý kinh tế, xã hội. Từ mấy thập niên gần đây, nạn tham nhũng, suy thoái gia tăng, biểu hiện rõ nhất là: "Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc..." .

Đại hội lần thứ X, lần thứ XI, lần thứ XII của Đảng, khi kiểm điểm công tác xây dựng Đảng, đều đánh giá nghiêm túc những khuyết điểm, yếu kém của Đảng, trong đó có nạn tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một số cán bộ, đảng viên; đồng thời nêu lên mục tiêu, quan điểm, phương châm, giải pháp ngăn chặn, đây lùi tệ nạn trên. Đặc biệt, Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (tháng 01-2012), đã ra nghị quyết chuyên đề Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, xác định tập trung cao độ thực hiện tốt ba vấn đề cấp bách, trong đó vấn đề "kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng" . Qua đó có thể thấy rõ, Đảng ta đã sớm nhận thức được tình hình, đánh giá đúng tính chất nguy hiểm của tệ nạn, công khai thừa nhận và quyết tâm ngăn chặn, đẩy lùi hiện tượng tiêu cực đó.

Nhìn nhận một cách khách quan, từ Đại hội lần thứ X của Đảng đến nay, nhất là từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, vấn đề chống tham nhũng, suy thoái luôn là vấn đề có tính thời sự trong xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát động và lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tệ nạn đó.
Việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng đã đạt được một số kết quả, nhưng một số việc chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra.

Để tăng cường nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (tháng 10-2016) đã ra Nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI: "Việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng đã tạo được những chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị" . "Công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đạt được một số kết quả" . Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, "một số việc chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra" .

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đánh giá: "Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước" , về mức độ nguy hiểm, hậu họa của tình trạng trên, Nghị quyết đánh giá: "... sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc" .

Nghị quyết cũng chỉ ra nguyên nhân khách quan và chủ quan của tình hình trên, trong đó xác định "nguyên nhân chủ quan là chủ yếu", có nguyên nhân thuộc về trách nhiệm của cơ quan đảng và chính quyền nhà nước cấp Trung ương, có nguyên nhân thuộc về cấp ủy và tổ chức đảng các cấp; đặc biệt nguyên nhân sâu xa, chủ yếu, trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đã thiếu tu dưỡng, rèn luyện, lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân.
Sự đánh giá tình hình và chỉ ra nguyên nhân như vậy là đúng với thực tiễn. Vượt qua tâm trạng bức xúc trước các hiện tượng tiêu cực xã hội dễ làm người ta nhìn nhận thực tiễn thiếu khách quan, cần có đánh giá khách quan cả mặt làm được và mặt chưa làm được của cuộc đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái những năm vừa qua, kể từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đến nay. Rõ ràng là mấy năm gần đây, tệ nạn tham nhũng chưa bị đẩy lùi, nhưng đã ngăn chặn được sự lây lan. Trước sự kiểm tra, xử lý đúng kỷ cương, kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với các hiện tượng tham nhũng, suy thoái; trước sự mạnh dạn tố giác các hành vi tham nhũng, suy thoái của nhân dân, những kẻ tham nhũng, suy thoái đã phải dè chừng, có phần e ngại, sợ kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước, không dám hành động trắng trợn như trước. Trong số cán bộ, đảng viên phạm vào tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có người được giáo dục, đấu tranh đã từ bỏ quan điểm sai trái của mình, trở về đội ngũ; có người không còn dám công khai thách thức dư luận, hách dịch, cửa quyền, phô trương giàu có, ăn chơi sa đọa... Các cơ quan hành chính sự nghiệp đã có nhiều cải cách hành chính, nâng cao tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân; các bệnh viện tăng cường trang thiết bị y tế, nâng cao y đức phục vụ người bệnh ngày một tốt hơn; các trường học cũng chấn chỉnh việc học thêm, dạy thêm, thi cử chạy theo thành tích... Rõ ràng là người dân có hài lòng hơn trước về chất lượng phục vụ của cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Các hiện tượng tham nhũng cũng có chiều hướng được ngăn chặn.

Điều đó nói lên rằng, cuộc đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái vừa qua, tuy chuyển biến chậm, chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra, nhưng đã có kết quả bước đầu. Đó là điều không thể phủ nhận. Viện dẫn một luận chứng không đúng sự thật là đã nhiều lần chống tham nhũng, suy thoái không thành công để kết luận rằng cuộc đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái hiện nay của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể thành công là điều phi lý.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã nhận diện rất cụ thể những biểu hiện suy thoái, xác định mục tiêu, quan điểm, các nhóm giải pháp và việc tổ chức thực hiện. Qua đó thể hiện Đảng xác định quyết tâm chính trị, cả xã hội có sự chuyển mình, cả hệ thống chính trị cùng toàn dân quyết tâm vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái.

Một bài học kinh nghiệm trong lịch sử Đảng và lịch sử cách mạng nước ta, khi Đảng với bản lĩnh vững vàng, trí tuệ sáng suốt, có đường lối cách mạng đúng đắn, đáp ứng yêu cầu của lịch sử, được lòng dân, Đảng với dân nhất trí, đổng lòng thì mọi việc dù khó khăn đến mấy, kể cả những khi tình thế cách mạng, vận mệnh dân tộc lâm nguy, cũng đi tới thành công.
Luận điểm Đảng Cộng sản không thể đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái thành công với những luận chứng chủ quan, võ đoán thực chất không phải là một luận điểm khoa học, mà chỉ là luận điệu xấu, gieo rắc, lan truyền gây hoang mang, mất niềm tin vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái với những ai thiếu vững vàng, nhẹ dạ cả tin, nhằm phá hoại phong trào cách mạng của Đảng và của nhân dân ta.

PGS.TS. VŨ NHƯ KHÔI

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

PHÊ PHÁN NHỮNG LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI, XUYÊN TẠC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 PHOTOGRAPHER NGUYỄN VĂN LUẬN ẢNH: CÂY TRÂM CÔ ĐƠN Ở HOÀ THÀNH