Chuyên đề 4
VIỆT NAM
KIÊN ĐỊNH
MỤC TIÊU
ĐỘC LẬP
DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Trong cuộc đấu tranh tư tưởng,
lý luận hiện
nay, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn là một trong những
chủ đề nóng bỏng nhất mà các thế lực thù địch luôn công kích với những
luận điệu ngang trái, giả dối và hằn học. Họ cho rằng, chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở
Liên Xô và Đông Âu, thế giới đương đại là thế giới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, hầu hết
các nước trên thế giới đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, nên Việt Nam không
thể giữ mãi định hướng xã hội chủ nghĩa. Những luận điệu đó không phải không có
những tác động nhất định đối với một số người nhẹ dạ, cả
tin. Chính vì thế,
rất
cần phải lý giải một cách cặn kẽ hơn việc Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong
nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng
định một trong những bài
học kinh nghiệm lớn của cách mạng nước ta là: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ
vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ
mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết
để
thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc
lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là
hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau"1. Văn kiện
Đại hội XI của Đảng cũng nhấn mạnh: “Trong bất kỳ điều kiện
và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định
và vận dụng sáng
tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội"2. Văn kiện
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, vận dụng
sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới"3.
Nhìn
ra bên ngoài và nhìn lại lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX
và những năm đầu thế kỷ XXI vừa qua, chúng ta càng thấy rằng sự lựa chọn của Đảng ta, của nhân dân
ta là hoàn toàn chính xác.
Như
chúng ta biết, dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng bất khuất,
đã từng chiến thắng nhiều thế lực đế quốc, phong kiến hung hãn. Từ
khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu
nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy trên khắp mọi miền
đất nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận
quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương, Duy Tân, Đông Du; các cuộc khởi
nghĩa Yên Thế;
Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn
áp và thất bại. Điều đó chứng tỏ rằng, vẫn là nhân dân giàu lòng yêu nước, có truyền thống chống giặc ngoại
xâm, sẵn sàng ủng hộ và tham gia các phong trào yêu nước; còn các bậc sĩ phu,
các nhà lãnh đạo các phong trào chống thực dân Pháp đều có trí dũng, không thiếu
quyết tâm, nhưng cả họ, cả giai cấp phong kiến và đại diện cho thế lực tư sản khi đó
đều không giải quyết được vấn đề dân tộc ở nước ta.
Trong
bối
cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc càng trở nên là
yêu cầu cơ bản, khách quan của xã hội Việt Nam - xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.
Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong "tình hình đen tối
như không có đường ra". Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả
năng gánh vác sứ mệnh trọng đại đó? Nhưng rồi chính
lịch sử có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã vạch ra cái tất yếu từng bị che lấp
bởi màn
sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác khẳng định chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một chế
độ tốt đẹp hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người và người
đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp công nhân - sản phẩm của nền
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ nghĩa tư bản
ở vào thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến
và đã bành trướng ra khắp thế giới. Các nước tư bản phát triển khi ấy đang trở thành “trung tâm vũ trụ” chi phối và
làm mưa làm gió mọi mặt đời sống xã hội loài người.
Nghiên cứu lịch sử xã hội loài người, C.Mác đã khái quát nó qua sự phát
triển của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau. Theo quan điểm của C.Mác, sự
thay đổi hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác nhất
định phải có điều kiện hình thái kinh tế - xã hội cũ đã mất khả năng tự phát
triển và trở thành lực cản xã hội. Chủ nghĩa tư bản tất yếu bị thay bằng chủ
nghĩa xã hội, và điều đó sẽ xảy ra ở những nước mà chủ nghĩa tư bản phát triển
đến đỉnh cao. Chính V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích Nga đã vận dụng sáng tạo các luận
điểm của C.Mác vào hoàn cảnh lịch sử của nước Nga bằng việc, trước tiên giai cấp
công nhân giành lấy chính quyền, rồi sau đó dựa vào chính quyền của mình xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Vậy là, chính vào thời điểm chủ nghĩa tư bản tưởng như đang cực thịnh ấy,
thì cách mạng Tháng Mười nổ ra. Sự đột phá Tháng Mười mở đầu cho một xu thế
phát triển mới của lịch sử thế giới. Nếu trước cách mạng Tháng Mười, chế độ tư
bản chủ nghĩa phát triển đến mức người ta rêu rao như một “định mệnh”, như một
“ trật tự vĩnh hằng”, thì sau tháng Mười năm 1917, không ai không thấy cái “xiềng
xích” giam hãm thế giới đã bị chặt đứt, điều định mệnh ấy thành ảo tưởng, các
trật tự ấy bị lật nhào, tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt cuộc đấu tranh
giải phóng có quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử
nhân loại.
Rõ ràng, Cách mạng Tháng Mười Nga “rung chuyển thế giới” đã làm cho tính
chất thời đại thay đổi, giai cấp trung tâm của thời đại thay đổi, vai trò lãnh
đạo cách mạng cũng
Thay đổi; vì vậy,
con đường để giải quyết mâu thuẫn của xã hội, lực lượng cách mạng cũng
thay đổi. Lý tưởng Tháng Mười không chỉ là
ngọn đèn pha dẫn đường tỏa sáng, mà còn có những đóng góp thực tế to lớn.
Cách mạng Tháng Mười là tiếng chuông
đánh thức lịch sử, báo hiệu một trang sử mới của thế giới. Thế giới trước cách mạng Tháng Mười là một
thời kỳ u mê, an phận, là thời đại của chủ nghĩa tư bản. Sự đột phá Tháng Mười
làm cho chủ nghĩa tư bản bị đổ vỡ, mất mát lớn. Thế giới bừng tỉnh, bung ra với
sức mạnh của sự hình thành và phát triển chủ nghĩa xã hội, giải phóng xã hội,
giải phóng con người. Thành quả của
Cách mạng Tháng Mười
đã tạo cho loài người có khả năng kìm giữ sự lộng hành của chủ nghĩa tư bản, làm thay đổi cả những yếu tố bên trong cùa chủ nghĩa tư bản. Cách mạng
Tháng Mười
là niềm vinh quang của những
người vô sản cùng với hang trăm triệu
người lao động thành thị và nông thôn nước Nga. Họ đã lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và phong kiến,
giành quyền làm chủ cuộc sống của mình. Đó là thắng lợi của một xu thế mới; độc
lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội và gắn kết với chủ nghĩa xã hội.
Toàn
bộ tình hình đó
của thế giới, bằng nhiều
con đưòng, dội vào và thấm sâu trong mảnh đất Việt Nam - nơi mà chính sự
tàn bạo của chủ
nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc
là gieo hạt của công
cuộc giải phóng nữa thôi". Hơn ai hết, chính Nguyễn Ái Quốc là người gieo mầm cho cách mạng Việt
Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã hội. Ở
Người, chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam, bản lĩnh và tố chất đặc biệt Việt Nam đã "bắt
gặp" chủ
nghĩa Mác - Lênin, nói như Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng - một cuộc gặp
gỡ đẹp như cùng hẹn trước - đã hun đúc nên tư tưởng Hồ
Chí Minh. Với kỳ công
Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với
phong
trào yêu nước và phong trào công nhân Việt
Nam chuyển hóa thành một tất yếu đưa đến một sự kiện trọng
đại:
Năm 1930,
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự
kết hợp các nhân tố dân tộc và giai
cấp,
quốc gia và quốc tế, độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Vừa ra đời, Đảng tuyên bố: "chủ trương
làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Lời tuyên bố
ấy cũng đồng nghĩa với lời
bác bỏ thẳng thừng chế độ
phong
kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa; và nhìn
rộng hơn bác bỏ bất cứ một con đường nào khác. Một cách tự nhiên là, ngay sau
lời tuyên bố
ấy của Đảng, chủ nghĩa xã hội không chỉ
là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam
chuyển
mình, là con đường dân tộc Việt Nam đã và đang đi dọc theo thế kỷ
XX, sang thế kỷ XXI và tiếp tục cho tới đích cuối cùng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới khỏi ách
nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu được nhân loại,
đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc, có một
xã hội tốt lành gắn
liền với tự
do,
bình đẳng, bác ái, đoàn kết,
ấm
no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất cả vì
niềm vui, hòa bình, hạnh phúc của con
người.
Rõ ràng, sự lựa chọn
mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội của Đảng và
nhân dân ta, xét về lôgíc
là một tất yếu khách quan;
xét về lịch
sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận
động của cách mạng Việt Nam và xu thế
phát triển của thời đại; xét về nhu cầu,
là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa,
nửa phong kiến
và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; và xét về mặt xã
hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết
định sự phát triển của đất nước Việt Nam hôm nay và mai sau.
Có
thể
khẳng định như vậy, bởi vì việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo ý thức hệ
phong kiến và tư sản, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ
nghĩa không tránh khỏi những mâu thuẫn và những hạn chế bắt nguồn từ bản chất kinh tế
và chính trị của các chế độ ấy - những hình thái kinh tế - xã hội dựa trên các
quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các quan hệ đối kháng giai cấp.
Vượt
qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong công việc giải quyết
vấn đề độc lập theo lập trường phong kiến và tư sản chỉ có thể là con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội,
tức
là
giải quyết
độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của
chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là: Độc lập dân tộc thực sự
phải là độc lập về chính trị, kinh tế; văn hóa đối ngoại. Độc lập
dân tộc thực sự đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức,
bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự
do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia - dân tộc phải do quốc gia - dân tộc
đó giải quyết, không có sự can thiệp từ bên ngoài.
Bản
chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội sẽ xóa bỏ
căn nguyên kinh tế sâu xa của tình
trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh
ra. Nhờ đó, nó xóa bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về
chính trị và sự nô dịch con người về
tinh thần, ý thức và tư tưởng.
Chủ
nghĩa xã hội thực hiện độc lập dân tộc để mở đường đưa dân tộc tới sự phát triển
phồn vinh về kinh tế
và sự phát triển phong phú, đa dạng về văn hóa, tinh thần, sự thực hiện đầy đủ
nhất quyền lực của nhân dân. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập
dân tộc mới đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực
của mọi người lao
động, làm
cho mọi thành viên của
cộng đồng dân
tộc trở thành người chủ thực sự, có cuộc sống vật chất ngày
càng đầy đủ và đời sống
tinh thần ngày càng phong phú. Chính điều đó làm cho nền
tảng của sự độc lập tự chủ càng thêm
vững chắc, khả năng bảo vệ nền độc lập dân tộc càng đầy
đủ mạnh mẽ.
Sự
phát triển thực chất
và bền vững của độc lập dân tộc được đo bằng những khả năng và điều kiện bảo đảm
cho dân tộc thoát khỏi tình cảnh nô lệ, phụ
thuộc, bị áp bức, bóc lột và nô dịch. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc
vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trên
thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự
bình đẳng trong các mối
quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đổng dân tộc này với cộng
đồng dân tộc khác.
Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm đó chỉ có thể
được tìm thấy và giải quyết bằng
con đường phát triển chủ nghĩa xã hội.
Độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam,
dưới ngọn cờ của
Đảng,
trong thời đại nay.
Đó cũng chính
là cái lôgíc phát triển
lịch sử
của dân
tộc Việt Nam 87 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, làm nên cốt cách Việt
Nam, bản lĩnh Việt Nam và vị thế Việt Nam trước thế giới.
Nhận
thức và hành động theo sự lựa chọn và theo hệ giá trị đó từ
năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập
và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu
tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách
thống
trị của thực dân phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân
chủ
Cộng hòa, đưa nưóc
ta tiến
vào kỷ
nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc
kháng chiến
chống
xâm
lược mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa
Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Qua hơn 70 năm giành
và giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt
30 năm đổi
mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sàn
Việt Nam xứng
đáng tiêu biểu cho bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa, đã tỏ rõ tính độc lập, tự chủ trong mọi đường lối, chính sách đối nội
và đối ngoại, đưa nước ta từ một xứ thuộc địa
nữa
phong kiến trở
thành một quốc gia độc
lập, tự do, phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, nhân dân ta từ thân phận
nô lệ đã trở
thành người chủ
đất
nước, làm chủ
xã hội; đất nước ta ra khỏi
tình trạng đói nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế;
có quan hệ
quốc tế ngày càng rộng mở,
có vị thế ngày càng cao trên
trường quốc tế. Tất nhiên trong suốt
hành trình cách mạng sáng tạo
cũng gặp phải nhiều trở ngại, gian nan,
chúng ta không tránh khỏi những hạn chế, yếu kém khi thực hiện những nhiệm vụ cụ
thể của việc xây dựng nền độc lập dân tộc và hướng tới chủ nghĩa xã hội.
Như
vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục
tiêu, là nhu
cầu, là cương
lĩnh hành động, là ngọn cờ
hiệu triệu, mà còn là động
lực, là niềm
tin sắt son của dân tộc Việt Nam ta. Độc lập
dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết
hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt
Nam hôm qua, hôm nay và mai sau.
Đã
qua gần 2 thập kỷ đầu
của thế kỷ XXI, thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động, cũng đồng thời mở ra
một kỷ
nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế.
Thế giới
đã chứng kiến bao cảnh đau thương của nhiều dân tộc ở
châu Phi, ở Trung Đông, dù đã giành được độc lập
nhưng đất nước bị hoang tàn bởi các xung đột chia rẽ trong nội bộ và sự can thiệp
từ bên ngoài. Ngay những nước cạnh ta như Thái Lan, Campuchia, dù có độc lập
dân tộc nhưng việc tranh giành giữa các lực lượng chính trị trong nước làm
cho tình hình luôn nóng bỏng, cuộc sống của nhân dân không
được bình yên. Vậy nên, dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra
sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, với tất cả mặt tích
cực và tiêu cực, bất trắc; dù cho ai đó bị lóa mắt bởi những bộ áo cánh
sặc sỡ của chủ nghĩa tư bản thì hệ giá
trị độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và
trong hành động vẫn là mục tiêu, lý
tưởng, là quốc bảo phù hợp xu thế thời đại. Mãi mãi giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân
ta tiếp tục giành thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc,
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh, đưa đất nước
ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
1.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr.2.
2. 1,2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.65, 21.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.46.
GS.TS. VŨ VĂN HIỀN
Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng
Lý luận Trung ương.